Khát vọng “Bình thiên hạ” của thủ lĩnh trẻ

Nguyễn Bình sinh năm 1908, tại thôn Yên Phú, xã Tinh Tiến (nay là xã Giai Phạm) huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, tên khai sinh là Nguyễn Phương Thảo. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, tại vùng quê giàu truyền thống cách mạng, từ nhỏ, cậu thanh niên đã sớm hình thành trong mình phẩm chất của một thủ lĩnh, bản lĩnh bất khuất hơn người. Ngay từ năm 16 tuổi, không chịu được ách thống trị của thực dân Pháp, Nguyễn Phương Thảo hăng hái tham gia phong trào cách mạng tại Hải Phòng.

Năm 1927, trước sự truy lùng của thực dân, Nguyễn Phương Thảo tìm đường vào Sài Gòn tiếp tục hoạt động. Một năm sau, vừa tròn 20 tuổi, chàng thanh niên xin gia nhập Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, khi tổ chức này đang tích cực hoạt động chống thực dân Pháp.

Con đường cách mạng của chàng trai trẻ đã rẽ theo con đường mới vào năm 1929 khi Nguyễn Phương Thảo bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Chính trong trốn “địa ngục trần gian” này, ông đã được những người tù cộng sản giáo dục, giác ngộ để có sự chuyển đổi về nhận thức, thay đổi về quan điểm, tư tưởng chính trị. Và sự chuyển hướng đó đã khiến chàng thanh niên yêu nước bị những kẻ cầm đầu tù Quốc dân đảng đã tiến hành thanh trừng và dù thoát chết, mắt trái của Nguyễn Phương Thảo đã bị tàn phế vĩnh viễn...

Năm 1935, Nguyễn Phương Thảo được ra tù, trở về và bị quản thúc tại quê hương. Bất chấp sự quản thúc của chính quyền thực dân, ông tích cực tham gia các phong trào đấu tranh và thu hút được nhiều thanh niên có chí khí đến nhà cùng luyện tập võ nghệ. Không chỉ hoạt động ở quê nhà Hưng Yên, ông mở rộng tầm ảnh hưởng tới Hải Phòng, bắt mối với Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu, Trần Huy Liệu, Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt), là những nhà cách mạng ưu tú lúc bấy giờ…

Người tạo dựng “Đệ tứ chiến khu”

Những năm 1940, không khí cách mạng ở các tỉnh trên cả nước diễn ra sôi sục, với nhiều cuộc khởi nghĩa chấn động như khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ… Cùng với đó, sự ra đời của Mặt trận Việt Minh đã tạo ra bước ngoặt lớn của phong trào cách mạng trong nước. Trước không khí sục sôi đó, Nguyễn Bình hăng hái tìm đến các địa bàn trong vùng để bắt liên lạc, gây dựng tổ chức. Năm 1941, ông bí mật lên Hà Nội bắt liên lạc, đến năm 1942, được Xứ ủy Bắc kỳ phái lên Lai Châu tìm nguyên liệu chế tạo lựu đạn. Sau đó, tiếp tục được Trung ương giao thêm nhiệm vụ mua sắm vũ khí để cung cấp cho các đơn vị hoạt động ở khu vực Hà Nội - Hải Phòng. Từ đó, Nguyễn Bình tìm gặp các bạn tù xưa, móc nối với các cơ sở cách mạng ở Hải Phòng, thành lập cơ sở Việt Minh trên địa bàn.

Ngày 9-3-1945, sau khi biết tin Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương, nhận thấy thời cơ đã tới, Nguyễn Bình báo cáo kế hoạch xin cấp trên cho đánh đồn Bần Yên Nhân (Hưng Yên). Với sự mưu trí, dũng cảm của mình, ông đã cải trang thành sĩ quan Nhật rồi cùng đồng đội đóng giả làm tùy tùng bình tĩnh tiến vào đồn giặc khiến chúng không hề nghi ngờ. Do hiệp đồng chặt chẽ từ trước, với sự táo bạo, phối hợp từ trong ra ngoài, đội quân do Nguyễn Bình phụ trách đã nhanh chóng chiếm đồn, bắt gọn trung đội địch mà không tốn nhiều sức lực.

Lúc này, khí thế chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền sôi sục trong cả nước. Mặc dù chưa có chỉ thị chính thức, song, với sự quyết đoán, khả năng nắm tình hình hết sức nhạy bén, Nguyễn Bình và các đồng chí lãnh đạo trên địa bàn quyết định phát động cuộc tổng tiến công. Chỉ trong ngày 8-6-1945, bốn đồn địch ở Đông Triều, Chí Linh, Mạo Khê, Tràng Bạch đã bị tiêu diệt. Từ đây, Chiến khu Trần Hưng Đạo ra đời.

Thắng lợi liên tiếp của Chiến khu Đông Triều đã tạo sự lan tỏa mạnh mẽ. Ngày 16-7-1945, Nguyễn Bình tiếp tục thay mặt ban lãnh đạo chiến khu triệu tập chỉ huy các trung đội du kích về tiến đánh Quảng Yên. Chỉ trong một đêm, đội quân đã làm chủ hoàn toàn tỉnh lỵ Quảng Yên và huyện Yên Hưng (đều thuộc Quảng Ninh ngày nay). Đây cũng là địa phương đầu tiên ở miền Bắc được giải phóng trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong thắng lợi này, Nguyễn Bình đóng vai trò hết sức quan trọng, vị thế của người thủ lĩnh xuất chúng tiếp tục được khẳng định.

Nếu để Nam Bộ mất, Nguyễn Bình sẽ chết với khẩu súng này!

Đất nước độc lập chưa được bao lâu, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tại Nam Bộ. Trước tình thế đó, với tài dùng người của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phái Nguyễn Bình, lúc đó đang giữ chức Tư lệnh Ủy ban quân sự liên tỉnh Duyên hải Đông Bắc vào Nam Bộ.

Khi giao nhiệm vụ cho Nguyễn Bình, Người nói: “Bác nghĩ rằng các lực lượng vũ trang trong đó đang cần một chỉ huy tài năng để tập hợp cán bộ địa phương lại, nếu không sẽ có thể xảy ra nạn thập nhị sứ quân rất tai hại trong lúc này. Người chỉ huy đó phải biết rõ miền Nam, lại phải là một người có đủ bản lĩnh thu hút những tay giang hồ kiểu Bình Xuyên. Chú có thể đảm nhận được vai trò đó không?”. Đáp lại niềm tin tưởng của Bác Hồ, Nguyễn Bình dõng dạc: “Bác đã tín nhiệm cháu, cháu xin nhận”.

Trước khi vào Nam, đại diện thành phố Cảng trao tặng Nguyễn Bình khẩu súng lục hiệu Wicker để làm kỷ niệm. Đáp lại những tình cảm thiêng liêng đó, ông nói: “Bác đã giao miền Nam cho Nguyễn Bình, thành phố Cảng tặng Nguyễn Bình khẩu súng này để hoàn thành nhiệm vụ Bác giao. Nguyễn Bình thề với khẩu súng này: Nếu để Nam Bộ mất, Nguyễn Bình sẽ chết với khẩu súng này”.

Nhận nhiệm vụ, một tháng sau, Nguyễn Bình đã có mặt tại Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay) để cùng với một số nhân vật lãnh đạo địa phương tổ chức họp bàn thống nhất các lực lượng kháng chiến. Tại đây, ông nhận được sự ủng hộ của đông đảo mọi người và được bầu là Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ.

Nguyễn Bình tiếp tục tìm gặp Tô Ký và Trần Văn Trà lúc này đang lãnh đạo liên quân Bà Điểm, Hóc Môn, Đức Hòa để họp bàn, đưa ra chủ trương xây dựng ngay căn cứ địa cách mạng lâm thời và tổ chức hội nghị gồm các lực lượng vũ trang ở khắp các tỉnh Nam Bộ để đoàn kết tất cả lại, dồn sức đánh Pháp. Sau khi nghe các ý kiến đề xuất, Nguyễn Bình quyết định chọn địa điểm xây dựng căn cứ là An Phú Xã, địa điểm hội tụ đủ những điều kiện “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.

Cùng với quyết định thành lập căn cứ địa, Nguyễn Bình còn chỉ đạo thành lập Trường Quân chính Miền Đông (ngày 12-12-1945) với quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng đi đôi với đào tạo cán bộ quân sự, phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài. Với cương vị Hiệu trưởng Trường Quân chính và Khu bộ trưởng Khu 7, Nguyễn Bình đã chỉ đạo phân công phần lớn học sinh quân tỏa về các địa phương của Thủ Dầu Một, Biên Hòa để tổ chức phát động chiến tranh du kích, gây dựng chính quyền cơ sở.

Trước những cống hiến, đóng góp quan trọng cho cách mạng, trong đợt phong quân hàm tướng đầu tiên, tháng 1-1948, Nguyễn Bình đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh phong quân hàm Trung tướng, là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thật tiếc, khi tài năng đang độ chín, uy tín đang ngày càng dâng cao, ngày 29-9-1951, Trung tướng Nguyễn Bình đã hy sinh trên đất bạn Campuchia trong chuyến công tác đặc biệt.

Tháng 2-1952, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 84/SL truy tặng Trung tướng Nguyễn Bình Huân chương Quân công hạng Nhất. Ông là người đầu tiên trong quân đội được nhận huân chương cao quý này. Sau đó, Trung tướng Nguyễn Bình đã được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Hồ Chí Minh.

(Theo media.qdnd.vn)