Ở tuần thứ 30 của thai kỳ chị L.T.N.L (23 tuổi, trú tại xã Minh Hòa, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ) được bác sĩ chẩn đoán thai nhi có dấu hiệu tắc tá tràng bẩm sinh – bệnh lý có tỉ lệ tử vong rất cao. Chị L. được nhập viện để bác sĩ theo dõi, quản lý thai.

Sau khi sinh, em bé được các bác sĩ ở khoa Sơ sinh và Ngoại nhi tiến hành hội chẩn ngay. Qua kết quả xét nghiệm, thăm dò chức năng các bác sỹ xác định đây là một trường hợp tắc tá tràng bẩm sinh do màng ngăn niêm mạc tá tràng có lỗ và em bé được chỉ định phẫu thuật khi mới 23 giờ tuổi.

ThS.BS. Nguyễn Đức Lân – Trưởng khoa Ngoại nhi tổng hợp, Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Phú Thọ cho biết, trước đây, với các trường hợp trẻ bị tắc tá tràng có cân nặng dưới 2.5kg thường được phẫu thuật bằng phương pháp mổ mở với một đường rạch dưới sườn khoảng 10cm để tìm vị trí tắc và khâu nối tá tràng. Tuy nhiên, với bệnh nhi này, do thể trạng trẻ tốt, cân nặng đảm bảo (3,5kg) và không có các dị tật kèm theo nên các bác sĩ quyết định phẫu thuật nối tá tràng qua vị trí tắc tá tràng dưới kỹ thuật phẫu thuật nội soi.

So với việc phẫu thuật bằng phương pháp mổ mở thì việc ứng dụng kỹ thuật phẫu thuật nội soi trong điều trị tắc tá tràng bẩm sinh có nhiều ưu điểm như thời gian đau sau mổ ngắn và mức độ đau nhẹ, hạn chế tối đa các biến chứng, đồng thời bệnh nhi cũng hồi phục rất nhanh sau phẫu thuật. Ngày thứ 2 sau mổ bệnh nhi đã có thể đi ngoài tốt, miệng nối lưu thông. Sang đến ngày thứ 5 trẻ đã bắt đầu bú mẹ, các chỉ số sinh tồn hoàn toàn bình thường, vết mổ khô ráo, đảm bảo vấn đề thẩm mỹ.

Theo Ths.BS Nguyễn Đức Lân – Trưởng khoa Ngoại nhi tổng hợp thăm khám lại cho bệnh nhi sau phẫu thuật tắc tá tràng là bệnh lý hiếm gặp, có thể do những nguyên nhân từ bên trong lòng tá tràng hoặc bên ngoài tá tràng. Những biểu hiện sớm sau sinh gồm: nôn dịch sữa và dịch xanh, vàng. Tuy nhiên, với sự phát triển của siêu âm chẩn đoán trước sinh như hiện nay, bệnh lý tắc tá tràng bẩm sinh hoàn toàn có thể phát hiện sớm ở thời kỳ bào thai. Do đó, các bác sĩ khuyến cáo, các sản phụ trong quá trình mang thai cần thực hiện đầy đủ các mốc siêu âm quan trọng và các xét nghiệm sàng lọc để phát hện sớm các bất thường ở thai nhi nếu có. Từ đó có kế hoạch theo dõi, quản lý thai kỳ chặt chẽ và kịp thời xử trí các bất thường có thể gặp phải, đảm bảo an toàn cho cả sản phụ và thai nhi.