Nghe bài viết tại đây:
Việt Nam là quốc gia có rất nhiều thế mạnh về biển để phát triển kinh tế - xã hội. Song song với phát triển kinh tế cũng cần phải tính đến yếu tố môi trường biển. Các quốc gia cũng như Việt Nam cần phải chú trọng bảo đảm chất lượng môi trường biển, luôn luôn phòng ngừa và sẵn sàng ứng cứu các sự cố môi trường biển, ô nhiễm biển.
Theo ông Phạm Văn Sơn - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS), Tổng thư kí Hội Bảo vệ Thiên nhiên và môi trường Việt Nam, tràn dầu là sự cố phổ biến trên biển nhưng không dễ nhận ra.
"Bình thường khi dầu thoát ra ngoài môi trường xuống nước chẳng hạn thì chúng ta rất dễ dàng quan sát thấy. Tuy nhiên, theo thời gian hoặc là bởi những tác động khác thì chúng ta không phát hiện được ra ngay đâu. Đó là quá trình lan truyền biến đổi của dầu", theo ông Sơn do tác động của dòng chảy, của sóng, của gió thì một phần đáng kể dầu sẽ bị khuếch tán vào trong nước, sau đó là nhũ tương, một phần sẽ bám dính vào hạt rắn và chìm xuống lớp đáy.
"Trong các loại dầu thì dầu DO là một sản phẩm dầu mỏ được sử dụng rất phổ biến. Đây là loại dầu nhẹ cho nên khi thoát ra ngoài môi trường nước, một thời gian sau chúng ta cảm thấy rất khó nhìn thấy, nhất là khi mà nó bám vào các hạt phù sa ở trong các dòng sông, các tuyến đường thủy nội địa thì lại càng khó nhận biết", ông Sơn nói.
Vì vậy, để có thể thực hiện quản lý tốt môi trường biển, đồng thời ứng phó kịp thời với những sự cố, ô nhiễm môi trường biển, theo ông Sơn, trước hết, phải tập trung khắc phục hậu quả trực tiếp của sự cố bằng cách huy động lực lượng chuyên trách, khoanh vùng khu vực bị ảnh hưởng và đưa ra biện pháp phục hồi phù hợp.
"Để kiểm soát ô nhiễm cũng như là phòng ngừa chủ động sự cố thì chúng ta sẽ phải sử dụng một cái loại phao thường trực. Tức là trước khi triển khai hoạt động xuất nhập hàng xăng dầu là chúng ta phải cô lập hoàn toàn khu vực cảng. Nếu mà xăng dầu rơi vãi ra thì đã được kiểm soát chủ động hoàn toàn trước đó", cách khoanh vùng này theo ông Sơn giúp con người bình tĩnh khi có sự cố xảy ra vì đó là vùng đã được cô lập sẵn.
Sau đó, cần tổ chức phục hồi hệ sinh thái bị tổn thương, đặc biệt là rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển. Việc trồng mới, tái tạo rừng ngập mặn và cải tạo môi trường sống tự nhiên giúp khôi phục đa dạng sinh học và tăng khả năng tự làm sạch của hệ sinh thái biển.
Cần xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm của các bên gây ra sự cố, xử lý nghiêm theo pháp luật, đồng thời yêu cầu bồi thường, khắc phục hậu quả để đảm bảo tính răn đe và công bằng. Để chủ động ứng phó, theo các chuyên gia, cần xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành trong ứng phó sự cố, thành lập lực lượng phản ứng nhanh ở cấp tỉnh, trang bị đầy đủ phương tiện, kỹ thuật và đào tạo chuyên môn cho cán bộ.
Ông Sơn cho rằng, trong nhiều sự cố tràn dầu, khi cơ quan quản lý đến thấy không có dầu thì coi như là việc đấy được khép lại rồi. "Phải nâng cao nhận thức của các cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý môi trường và trong các công trình xử lý nước thải, xử lý nước mặt rồi thì chúng ta cũng phải đưa vào những yêu cầu cụ thể để làm sao kiểm soát một cách tốt nhất tất cả nước thải, các phần dầu lẫn ở trong nước".
Một quốc gia biển càng cần đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục cộng đồng, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường biển, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn và đầu tư công nghệ xử lý chất thải.
Nhân dân là lực lượng hết sức quan trọng giúp giám sát chặt chẽ tất cả những hoạt động xả thải, cố tình xả thải hoặc các cửa nước thải thoát ra có ô nhiễm dầu và kịp thời báo cáo cho cơ quan quản lý để chấn chỉnh kịp thời. Song song đó, tăng cường hợp tác quốc tế trong chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để ứng phó hiệu quả với các sự cố môi trường biển trong tương lai./.
