Cách đây 53 năm, chiến dịch Điện Biên Phủ trên không diễn ra tại Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền Bắc. Tuy nhiên, mọi thông tin, diễn biến về chiến dịch này, những người trong cuộc vẫn nhớ như in. Trung tướng, phi công, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân Nguyễn Đức Soát, chia sẻ thông tin gây ấn tượng mạnh nhất phải kể đến là sự chênh lệch về lực lượng giữa hai bên. “Tương quan lực lượng, không biết nên so sánh như thế nào. Mỹ huy động đến 200 máy bay B52, bằng 50% tổng số máy bay chiến lược của Mỹ. Chưa bao giờ trong chiến tranh nước Mỹ huy động lực lượng lớn như vậy. Cùng với đó là hơn 1.000 máy bay chiến thuật của cả không quân và hải quân. Lúc đó để bảo vệ miền Bắc, chúng ta có 8 trung đoàn tên lửa thì 4 trung đoàn đang bảo vệ các tuyến đường trong Khu 4. Phía Bắc có 4 trung đoàn bảo vệ thì 2 trung đoàn bảo vệ Hà Nội. Số phi công tham gia chiến đấu ban ngày còn có 11 người, ban đêm có 12 người”, Trung tướng Nguyễn Đức Soát cho biết.

Nhớ lại giai đoạn ác liệt nhất của chiến dịch, Trung tướng Nguyễn Đức Soát cho biết có những thời điểm ông từng lo không còn đủ nhân lực để chiến đấu trước đội quân hùng mạnh của phía Mỹ. “Tháng 12/1972, Đại đội 3 - đơn vị sau này tôi làm Đại đội trưởng có một số phi công hy sinh. Khi anh em hy sinh, mình rằn vặt ghê gớm lắm. Cái mình lo không phải lo mình sy sinh, mà lo còn lực lượng để mà đánh hay không vì lúc đó không biết lúc nào chiến tranh mới kết thúc. Chúng ta phải gồng mình đánh trả mới đứng vững được. Hồi đấy, tôi phải trực chiến từ 10-15 ngày mới được nghỉ 1 ngày. Trực chiến là 3giờ 30 dậy ra sân bay tiếp thu máy bay, rồi sáng sớm cất cánh đi đánh. Một ngày cất cánh 2-3 lần, hạ cánh 2-3 sân bay, chiều về có khi không kịp tắm rửa, chỉ rút kinh nghiệm, ngủ 3 tiếng lại đi đánh”, Trung tướng Nguyễn Đức Soát nhớ lại.
Tương quan lực lượng, đây là cuộc chiến không cân sức. Tuy nhiên thắng lợi đã thuộc về quân và dân ta. Nhớ lại những gì đã diễn ra trên bầu trời Hà Nội và các tỉnh lân cận trong chiến dịch 12 ngày đêm năm 1972, Phi công, AHLLVTND Lê Thanh Đạo cho rằng sự mưu trí, sáng tạo đã giúp chúng ta chiến thắng. “Do cách bài binh bố trận của những người lãnh đạo, chỉ huy, tạo được thế trận chiến tranh nhân dân. Chiến công này là thắng lợi chung của quân đội, nhân nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng”, AHLLVTND Lê Thanh Đạo đánh giá.

Nghiên cứu về chiến dịch, Trung tá, cựu phi công Nguyễn Sỹ Hưng cũng cho rằng nhìn vào lực lượng đã có thể thấy yếu tố làm nên chiến thắng của quân và dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972. “Lực lượng quá chênh lệch. Vì thế, ở đây phải nói đến nghệ thuật tác chiến rất sáng tạo của Không quân Việt Nam. Không chỉ tương quan lực lượng về số lượng máy bay mà còn ở độ hiện đại của vũ khí máy bay. Còn chúng ta là sức mạnh tổng hợp, bao gồm trong đó cả thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận của từng chiến dịch, từng trận đánh, tạo nên ưu thế về thế trận để đối chọi với khái niệm ưu thế về số lượng”, cựu phi công Nguyễn Sỹ Hưng nhìn nhận.
Sự chênh lệch về lực lượng thể hiện rất rõ bằng những con số. Điều này càng cho thấy sự mưu trí của quân và dân ta là một trong những yếu tố then chốt làm nên chiến thắng. Trung tướng Nguyễn Đức Soát cho biết cùng với máy bay và vũ khí hiện đại, không quân Mỹ còn thường xuyên thay đổi chiến thuật tác chiến. Tuy nhiên, sự thay đổi ấy đều bị quân ta “hóa giải”. “Mỹ liên tục thay đổi cách đánh nhưng những cách đánh mới đều bị ta phá vỡ ngay sau đó”, Trung tướng Nguyễn Đức Soát cho biết.
Ngoài sự mưu trí, sáng tạo, khi đề cập chiến thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 phải kể đến lòng dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì tổ quốc của những người lính bay. Đây là góc nhìn của Đại tá, phi công Vũ Đình Rạng. “Tôi thán phục những người anh của tôi. Các anh bắn rơi 6-7 máy bay mà không nhảy dù lần nào. Đấy chỉ có thể là sự mưu trí, sáng tạo và dũng cảm trong cách đánh và chiến đấu”, Đại tá, phi công Vũ Đình Rạng chia sẻ. “Anh em chúng tôi, chưa có phi công nào khi được phân công mà không làm nhiệm vụ. Thậm chí, có những phi công trẻ khi huấn luyện chúng tôi thấy chưa thể làm tốt, không cho đi chiến đấu thì các phi công khóc đòi đi, tức là hừng hực khí thế chiến đấu”, Trung tướng Nguyễn Đức Soát nêu dẫn chứng về tinh thần chiến đấu của những người lính bay.
Hơn tất cả, trong mỗi cán bộ, chiến sỹ và người dân Việt Nam, ai nấy đều có niềm tin chiến thắng. Theo Trung tướng Nguyễn Đức Soát, đây cũng là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp chúng ta viết nên bản hùng ca Điện Biên Phủ trên không năm 1972. “Tại sao chúng ta dám đánh và đánh thắng được, tôi cho rằng quan trọng nhất là chúng ta có niềm tin chiến thắng. Cái này chúng ta phải cám ơn bác Hồ, cám ơn Đảng đã thổi lên ngọn lửa yêu nước và nhiệt huyết trong tâm của mỗi người dân Việt Nam rằng chúng ta nhất định chiến thắng. Niềm tin ấy là cơ sở cho chiến thắng cho nên ai cũng náo nức xông trận , ai cũng muốn lập công. Có niềm tin thì chúng ta có tất cả”, Trung tướng Nguyễn Đức Soát nhận định.
53 năm đã trôi qua nhưng âm hưởng hào hùng của chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không vẫn còn vang vọng. Những tấm gương về sự mưu trí, anh dũng của thế cha anh vẫn còn nguyên giá trị để thế hệ hôm nay học tập, áp dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.