Nghị luận về "điều chưa hoàn hảo"
Cảm giác hài lòng vì cả hai câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học đều đặt ra được những vấn đề hữu ích, thiết thực với cả cuộc sống và văn chương. Đó là nhận định của TS Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên Trường THPT Chu Văn An, Hà Nội về đề thi chuyên lớp 10, môn Văn của Hà Nội năm nay.
Theo cô Tuyết, câu nghị luận xã hội khá minh triết từ nhan đề cuốn sách, phần trích dẫn cho đến câu lệnh đều giúp học sinh nhanh chóng xác định đúng vấn đề cần bàn luận, đó là “Yêu thương chính những điều không hoàn hảo”! Đây vốn không phải vấn đề mới mẻ, từ ngàn xưa, con người đã thấu hiểu lẽ “nhân vô thập toàn”, hiểu để chấp nhận, hiểu để bao dung, hiểu để tự điều chỉnh khắc phục và hướng tới sự hoàn hảo dẫu chỉ là tương đối.
Cô Tuyết cho rằng, vấn đề dù không mới nhưng trong thời đại của thông tin, của những sự cố khủng hoảng truyền thông, của sự cạnh tranh và đánh giá nghiệt ngã, của bạt ngàn những cơ hội lựa chọn với nghề nghiệp hay các mối quan hệ… thì việc để học sinh bàn luận và thấu hiểu cả thế gian cũng như mỗi con người đều “có những điều không hoàn hảo” chính là cách giúp các em bình tâm, mạnh mẽ, nhân hậu hơn trước cuộc sống muôn mầu sắc.
Đề bài cũng có khả năng gợi mở cho học sinh những nghịch lí, những bí ẩn kì diệu trong tâm hồn con người khi chúng ta, thậm chí có thể yêu thương chính những vênh lệch, hao hụt, khuyết thiếu mà hờ hững với những sự được coi là hoàn hảo, toàn vẹn…!
Đánh giá về đề thi chuyên lớp 10 Hà Nội năm học 2021-2022 môn Ngữ Văn, cô Đỗ Khánh Phượng, giáo viên Ngữ văn, Hệ thống Giáo dục HOCMAI cho rằng đề có cấu trúc và hình thức quen thuộc, hoàn chỉnh với hai phần nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
Với câu 1, đề yêu cầu viết bài văn nghị luận về “điều chưa hoàn hảo mà em yêu thương”. Theo cô Phượng, đây là vấn đề khá hấp dẫn. Với đề văn này học sinh có cơ hội được bộc lộ suy nghĩ về mình và mọi người, giúp các em có cái nhìn khách quan, tích cực về những điều không trọn vẹn đó, trân trọng những điều đó. Từ đó, các em biết yêu quý bản thân và những người xung quanh, nỗ lực hoàn thiện chính mình trong cuộc sống, biết bao dung, mở lòng khi thấy được những điều chưa trọn vẹn ở mọi người”, cô Phượng nhận định.
Tuy nhiên, điều cô Trịnh Thu Tuyết băn khoăn trong phần nghị luận xã hội là câu lệnh: “Từ gợi dẫn trên kết hợp với hiểu biết xã hội, hãy viết một bài văn nghị luận bàn về những điều chưa hoàn hảo mà em yêu thương”.
Theo cô Tuyết, câu lệnh này có ít nhất hai định hướng. Thứ nhất là định hướng về đối tượng nghị luận, đó không phải là chủ thể cảm nhận mà là đối tượng cảm nhận, cụ thể, đó là “những điều chưa hoàn hảo mà em yêu thương” – trong khi cái hay, sâu, kì diệu của vấn đề mở ra không chỉ ở đối tượng mà chủ yếu lại là chủ thể.
Thứ hai là định hướng về xúc cảm của học sinh khi chỉ có một lựa chọn duy nhất là “yêu thương” những điều chưa hoàn hảo nào đó các em nhắc tới! Học sinh sẽ không có không gian độc lập cho lựa chọn thái độ hoặc xúc cảm trước “những điều chưa hoàn hảo” – bởi không nhất thiết chỉ có sự yêu thương, chấp nhận hay bao dung trước “những điều chưa hoàn hảo” của mình, của người!
Bản chất của cuộc sống, con người là vận động hướng tới sự hoàn thiện, hoàn hảo – khao khát những vẻ đẹp tận thiện tận mĩ luôn là khao khát đẹp đẽ, nhân văn của con người, chính vì vậy, học sinh có thể đặt ra những vấn đề rộng hơn, xa hơn về khát vọng hoàn hảo nếu không bị đề giới hạn trong định hướng.
Theo cô Tuyết nên chăng thay bằng câu lệnh: “Hãy trình bày suy nghĩ của em về quan niệm trên”, sẽ giúp rộng đất cho học sinh suy ngẫm.
Câu nghị luận văn học “hơi tham lam”
Câu nghị luận văn học với một vấn đề đã rất quen thuộc trong văn chương: Mới chưa chắc đã hay, hay phải mới. Theo cô Đỗ Khánh Phượng, giáo viên Ngữ văn Hệ thống giáo dục HOCMAI, cái mới dễ nhận biết, cái hay nằm ở tầm tư tưởng, tác động đến người đọc, lại phải phụ thuộc vào đối tượng tiếp nhận văn học. Đối tượng trình bày là học sinh lớp 9 nên bằng trải nghiệm văn học, học sinh lớp 9 khó nhận ra cái hay (trừu tượng).
“Trong sáng tạo nghệ thuật, chắc chắn mới là yêu cầu đầu tiên khẳng định tài năng của người nghệ sĩ. Tuy nhiên không thể tránh khỏi những cuộc “gặp gỡ” với một tác phẩm trước đó. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phát hiện những xử lí tinh tế của nhà văn để tạo nên cái độc đáo, mới mẻ” Vì vậy, cô Phượng cho rằng đề có vẻ “tham lam” bởi yêu cầu học sinh quá lớn về lí luận. Câu lệnh “cái mới” – “cái hay” được thể thể hiện còn lủng củng, gây khó khăn cho học sinh khi phân tích đề.
Với đề thi này, học sinh đòi hỏi phải có kiến thức sâu, rộng cả về hiểu biết xã hội và kiến thức văn học. Đặc biệt phải thuần thục các thao tác giải thích, chứng minh, bình luận mới có thể làm tốt đề này. Đây là một đề thi hay, có sức phân loại cao, kiểm tra khá toàn diện các đơn vị kiến thức, kĩ năng của thí sinh. Đề có khả năng khơi gợi sự hứng thú của học sinh, tuy nhiên câu nghị luận văn học vẫn còn hạn chế sức viết của học sinh khi giới hạn các tác phẩn sáng tác sau 1975.
Cô Nguyễn Thị Thu Trang, giáo viên Ngữ văn, Trường THCS quốc tế Wellspring (Hà Nội) đánh giá, câu nghị luận văn học “phân tích làm rõ cái mới góp phần tạo nên cái hay trong các bài thơ sáng tác sau năm 1975 của chương trình Ngữ văn 9”.
Nội dung đề cập tới một vấn đề rất cơ bản của lý luận về tác phẩm văn học, đó là giá trị tác phẩm và tính sáng tạo của nhà văn. Theo cô Trang, đây cũng là câu hỏi phân loại học sinh vì đòi hỏi các em phải có kiến thức lí luận chắc chắn và kiến thức sâu về tác phẩm, đồng thời cũng giới hạn phạm vi tác phẩm sau năm 1975 của chương trình Ngữ văn 9 chỉ có vài bài thơ: Nói với con, Mùa xuân nho nhỏ, Sang thu. Câu hỏi lí luận rộng bàn về cả tiêu chí nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học.
“Nhìn chung, đề thi Văn chuyên của Hà Nội năm nay hay, có tính phân loại, tạo cơ hội để học sinh bày tỏ quan điểm và kiểm tra toàn diện kiến thức văn học và kiến thức xã hội cũng như kĩ năng làm bài của học sinh. Tuy nhiên, đề thi chưa mang tính đột phá, tính thời sự hoặc có cách tiếp cận mới đối với học sinh” – cô Trang đánh giá.