Sau hơn 8 năm thi hành, Luật Báo chí 2016 đã bộc lộ nhiều hạn chế, như khái niệm chưa rõ ràng, điều kiện cấp phép chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế xử lý sai phạm và quy định thu hồi giấy phép; phân cấp quản lý giữa Trung ương - địa phương chưa rõ; chưa có hành lang pháp lý cho hoạt động báo chí trên không gian mạng và mô hình tập đoàn báo chí; liên kết báo chí tiềm ẩn nguy cơ tư nhân hóa; cơ chế bảo đảm tài chính và phát triển nguồn nhân lực báo chí còn thiếu. Đặc biệt, chưa có quy định đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, hay phát triển các cơ quan báo chí mạnh, có sức dẫn dắt và định hướng dư luận.
Vì vậy, việc ban hành Luật Báo chí (sửa đổi) là yêu cầu khách quan, nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thể chế hóa chủ trương của Đảng, đáp ứng thực tiễn phát triển truyền thông hiện đại, bảo đảm báo chí phát huy đúng vai trò là công cụ tư tưởng sắc bén, nền tảng thông tin vững chắc của quốc gia trong kỷ nguyên số.
So với Luật Báo chí năm 2016, Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) giữ nguyên nội dung của 6 điều; sửa đổi nội dung của 41 điều; bổ sung 3 điều mới, lược bỏ 6 điều.
Bổ sung quy định riêng về mô hình cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện
Dự án Luật Báo chí (sửa đổi) quy định các nguyên tắc về mô hình hoạt động, kinh tế báo chí, mở rộng không gian hoạt động của báo chí để phát triển trong bối cảnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu thông tin, tuyên truyền trong kỷ nguyên mới.
Theo đó, bổ sung quy định: Cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện là cơ quan báo chí có nhiều loại hình báo chí; có cơ chế đặc thù về tài chính theo quy định của Chính phủ; được thành lập phù hợp với Chiến lược phát triển và quản lý hệ thống báo chí được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Góp ý tại Tổ, đại biểu Hoàng Đức Thắng (Đoàn Quảng Trị) đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, bổ sung quy định riêng về mô hình cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của mô hình này. Bởi đây là mô hình mới, lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam, đòi hỏi khung pháp lý rõ ràng để xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động, nguồn lực và trách nhiệm quản lý. Việc quy định riêng trong Luật sẽ tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng thời bảo đảm tính linh hoạt khi giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết, phù hợp với thực tiễn phát triển nhanh của truyền thông đa nền tảng.
Đại biểu Trần Thị Thu Đồng (Đoàn Cà Mau) cho rằng việc Dự thảo Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung về cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện và cơ chế đặc thù (Điều 16) là bước tiến quan trọng, tạo động lực phát triển cho các cơ quan báo chí nòng cốt. Tuy nhiên, theo báo cáo thẩm tra quy định này còn mang tính nguyên tắc, chưa thể hiện rõ con đường cụ thể để hiện thực hóa chính sách, thiếu nội hàm, nguồn lực tài chính và tiêu chí cụ thể xác định đâu là cơ quan báo chí chủ lực. Nếu không có tiêu chí rõ ràng, việc áp dụng cơ chế đặc thù sẽ dễ dẫn đến tùy tiện, thiếu công bằng trong phân bổ nguồn lực.
“Quan trọng hơn là tờ trình của Chính phủ chưa phân tích, đánh giá cụ thể về nguồn lực tài chính dự kiến để thực hiện các chính sách đầu tư và hỗ trợ. Điều này tạo ra rủi ro cho tính khả thi của Luật khi được thông qua. Cơ chế đặc thù về tài chính không được hậu thuẫn bởi nguồn vốn cụ thể thì sẽ chỉ là quy định trên giấy, không thể giúp các cơ quan báo chí chủ lực thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện tại để chuyển đổi số và nâng cao chất lượng thông tin.” – Đại biểu Trần Thị Thu Đồng nhấn mạnh.

Vì thế, đại biểu đề nghị làm rõ các tiêu chí cụ thể về phạm vi phủ sóng, số lượng nhân lực số, khả năng dẫn dắt dư luận nhân dân để xác định cơ quan chủ lực. Đồng thời Chính phủ cần trình bày kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn ngân sách cho việc thực hiện các chính sách tài chính đặc thù này đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả.
“Việc áp dụng cơ chế tài chính đặc thù bao gồm ưu đãi thuế hoặc cơ chế tổ chức tự chủ tài chính cao hơn cần rà soát kỹ lưỡng, đảm bảo tính thống nhất với các luật chuyên ngành khác. Nếu luật báo chí đi ngược hoặc chồng chéo, các cơ quan báo chí sẽ gặp vướng mắc lớn trong quá trình hạch toán, quyết toán.” – Đại biểu Trần Thị Thu Đồng cho hay.
Thiếu quy định cụ thể liên quan đến đầu tư công và cơ chế tự chủ của cơ quan báo chí
Quan tâm đến quy định về kinh tế báo chí, đại biểu Nguyễn Thị Tuyết Nga (Đoàn Quảng Trị) cho biết, dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) đã bổ sung và hoàn thiện một số quy định nhằm tạo điều kiện cho cơ quan báo chí có thêm nguồn thu, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động như: được Nhà nước hỗ trợ đầu tư tài chính; mở rộng nguồn thu của cơ quan báo chí; quy định về liên kết, hợp tác… quy định về quảng cáo. Tuy nhiên các quy định còn chung chung; còn thiếu quy định cụ thể liên quan đến đầu tư công và cơ chế tự chủ (khoản 3 Điều 10). Cần có hướng dẫn cụ thể để tránh việc lợi dụng hoặc thương mại hoá báo chí.
Cũng về vấn đề đầu tư công, đại biểu Leo Thị Lịch (Đoàn Bắc Ninh) nêu rõ, quy định về đầu tư công trong dự thảo Luật chưa cụ thể nên thiếu cơ sở để thực hiện. Điều này dễ dẫn đến việc chồng chéo với luật khác có liên quan và thiếu cơ chế tự chủ. Không làm rõ chính sách đầu tư này thì một số cơ quan báo chí ở vùng sâu, vùng xa sẽ gặp khó khăn khi tự chủ. Rất có thể họ sẽ phải vay ngân hàng để hoạt động, gây rủi ro cho cơ quan báo chí.

Xem xét lại việc cấp, đổi, thu hồi thẻ nhà báo
Một trong những điểm mới đáng chú ý trong dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) là xét cấp thẻ nhà báo lần đầu phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, đạo đức nghề nghiệp do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức. Chương trình và yêu cầu lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, đạo đức nghề nghiệp do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định.
Theo đại biểu Trần Thị Thu Đồng (Đoàn Cà Mau) việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà báo là yếu tố cốt lõi để phát triển báo chí trong kỉ nguyên đa phương tiện. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng việc quy định thời hạn thẻ 5 năm cho thẻ nhà báo được cho là chưa thực sự tạo điều kiện cho người làm báo, có nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc quy định này. Hiện nay chúng ta quy định mỗi lần cấp thẻ nhà báo là 5 năm nhưng có ý kiến cho rằng quy định không thời hạn cho thẻ nhà báo đi kèm với các cơ chế giám sát đánh giá đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên của Hội Nhà báo Việt Nam để đảm bảo chất lượng. Việc này vừa tôn vinh nghề nghiệp vừa đảm bảo việc cập nhật kiến thức liên tục, đặc biệt là kỹ năng báo chí số.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Thị Thu Đồng kiến nghị người có bằng cử nhân báo chí trở lên không cần qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí khi cấp thẻ lần đầu. Vì những sinh viên tốt nghiệp trường báo chí đã được trang bị những kiến thức nền tảng. Việc bồi dưỡng chỉ nên tập trung vào những vấn đề chuyên sâu đặc thù hoặc kỹ năng, công nghệ mới.