Luật sư Nguyễn Văn Nam, Cty Luật Hồng Bách và cộng sự trao đổi các quy định liên quan tới quyền và nghĩa vụ của người giám hộ:

Hệ thống pháp luật Việt Nam luôn có những quy định mang tính chất nhân văn hướng tới bảo vệ các đối tượng yếu thế trong xã hội như trẻ em, trong đó có các quy định về người được giám hộ. Khoản 1 điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 định nghĩa: Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được UBND cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).

Những đối tượng sau cần phải có người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự:

- Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;

- Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;

- Người mất năng lực hành vi dân sự: Là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi và được Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự.

Luật sư Nguyễn Văn Nam, Cty Luật Hồng Bách và cộng sự cho biết, đối với trẻ vị thành niên, khi cha mẹ trẻ con sống và có đầy đủ năng lực nhận thức hành vi dân sự, cha mẹ đương nhiên là người giám hộ cho con mình.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt như trẻ em không còn cha hoặc mẹ hoặc không còn cả cha và mẹ hay trường hợp không xác định được cha, mẹ hoặc có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự/ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi/ cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự/ cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con hay cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ thì căn cứ quy định điều 52 Bộ luật Dân sự 2015, người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo thứ tự sau đây:

- Thứ nhất, anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ;

- Thứ hai, trường hợp anh chị ruột đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ;

- Thứ ba, trường hợp ông bà đều không còn sống hoặc không ai đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ cho trẻ chưa thành niên;

- Cuối cùng, khi không còn ai trong tất cả những người nêu trên đáp ứng được điều kiện làm người giám hộ, căn cứ điều 54 Bộ luật Dân sự 2015, UBND cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.

Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: người giám hộ có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ. Tuy nhiên, việc thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ phải đáp ứng điều kiện tiên quyết là vì lợi ích, đem lại lợi ích tốt đẹp của người được giám hộ và trong một số trường hợp thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn thì phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam, trẻ em nói chung có quyền có tài sản riêng ví dụ như được tặng cho tài sản riêng trong cuộc sống hằng ngày, thừa hưởng tài sản từ di chúc... Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 diều 76 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý và đối với trường hợp con dưới 15 tuổi mà có tài sản riêng thì do cha mẹ quản lý. Trong trường hợp không có cha mẹ thì người giám hộ sẽ quản lý tài sản.

Để đảm bảo việc chăm sóc, quyền và lợi ích của người giám hộ được bảo đảm, pháp luật nước ta có quy định về người giám sát người giám hộ.

Người giám sát người giám hộ có thể là người thân thích của người được giám hộ hoặc cá nhân/ pháp nhân do UBND cấp xã nơi cư trú/ Toà án chỉ định. Người giám sát việc giám hộ phải đáp ứng điều kiện là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát và phải được sự đồng ý của họ.

Người giám sát việc giám hộ có quyền theo dõi, kiểm tra người giám hộ, xem xét và có ý kiến về việc quản lý tài sản của người giám hộ, hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ. Người giám sát việc giám hộ có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của trẻ và đảm bảo người giám hộ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.