Di tích Nhà Vương hay còn gọi là Dinh thự họ Vương, là một quần thể kiến trúc lịch sử đặc sắc nằm tại thôn Sà Phìn, xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang cũ, nay là xã Sà Phìn, tỉnh Tuyên Quang. Công trình này từng là nơi ở và làm việc của vua Mèo Vương Chính Đức và con trai là Vương Chí Sình (sau đổi thành Vương Chí Thành), đại biểu Quốc hội khóa 1 và khóa 2.

Theo lời kể và ghi chép trong tư liệu của con cháu dòng họ Vương, dòng họ người dân tộc H’Mông là một dòng họ lớn ở vùng đất Đồng Văn và ông Vương Chính Đức được coi là thủ lĩnh của người H’Mông nơi đây.

Vương Chính Đức được người H’Mông gọi là Vàng Dúng Lình, ông sinh ngày 12/8/1867 tại xóm Gấu, xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang (cũ), nay là xã Sà Phìn, tỉnh Tuyên Quang. Sinh thời, ông là người lanh lợi, giỏi võ và nghĩa hiệp nên được bà con H’Mông nơi đây kính trọng. Sau này, con trai ông là Vương Chí Sình nối nghiệp cai quản một vùng biên ải.

Theo tư liệu trong cuốn sách “Truyện nhà Vương” của tác giả Vương Duy Bảo cho biết, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đưa quân lên đánh vùng Đồng Văn hòng thu phục cha con ông Vương Chính Đức, nhưng cha con ông đã lãnh đạo đồng bào H’Mông chống lại. Thua cuộc, nên vào tháng 10/1913, thực dân Pháp phải ký hòa ước công nhận quyền tự quản vùng đất Đồng Văn của cha con ông, đồng thời phong ông Vương Chính Đức làm Bang Tá. Dù vậy, thực dân Pháp vẫn có mưu đồ tiêu diệt cha con ông. Năm 1936, lấy cớ tổ chức hội chợ “Đấu Xảo” tại Hà Nội, thực dân Pháp đã mời ông Vương Chính Đức cùng 16 thủ lĩnh người H’Mông dưới quyền của ông về Hà Nội dự hội chợ. Nhưng khi vừa về tới Hà Nội, Vương Chính Đức cùng 16 thủ lĩnh dưới quyền bị Pháp bắt giam tại nhà tù Hỏa Lò.

Trong những năm tháng này. Vương Chí Sình tìm mọi cách, kể cả bán hết tài sản để hối lộ các quan chức của thực dân Pháp để cứu cha mình và 16 anh em. Mấy tháng sau, Vương Chí Sình đã cứu được cha mình và 16 thủ lĩnh người H’Mông ra khỏi nhà tù, nhưng dã tâm của thực dân Pháp đối với cha con ông vẫn chưa dừng lại. Năm 1938, thực dân Pháp đã làm mọi cách xóa bỏ chế độ tự trị của cha con ông Vương Chính Đức.

Ngày 22/2/1947 ông Vương Chính Đức qua đời tại dinh thự ở Sà Phìn, thọ 80 tuổi. Khi đó, Bác Hồ đã cử ông Mai Trung Lâm, Chính ủy kiêm chỉ huy trưởng Công an nhân dân Vũ trang Khu Tự trị Việt Bắc cùng ông Hoàng Đức Thắng từ chiến trường Việt Bắc lên Sà Phìn cùng con cháu họ Vương chôn cất Vương Chính Đức trong một khu lăng mộ đá được xây trên đỉnh núi La Gia Động cách Sà Phìn khoảng 3 cây số.

Trước đó, vào đầu năm 1945, Bác Hồ cũng đã cử cán bộ Việt Minh Hoàng Việt Hưng lên Sà Phìn để giác ngộ cha con ông Vương Chính Đức theo cách mạng. Sống trên mảnh đất Đồng Văn đầy biến động thời kỳ đó, cha con ông Sình cũng đã phần nào nhận thấy bản chất của thực dân Pháp cũng như Quốc dân Đảng nên khi được giác ngộ và nể phục đạo đức của Bác Hồ, 2 cha con ông đã nhất trí đi theo Bác. Liên quan đến câu chuyện này, hiện nay ở di tích nhà Vương vẫn còn 2 hiện vật do Bác Hồ trao tặng.

Chị Vương Thị Chờ, hậu duệ đời thứ tư dòng họ Vương ở Sà Phìn cũng là thuyết minh viên tại khu di tích Dinh thự Nhà Vương cho biết: “2 hiện vật mà Bác Hồ tặng ông Vương Chí Sình vào năm 1946 khi ông Vương Chí Sình về Hà Nội gặp Bác Hồ, Bác đã tặng cho ông 1 thanh bảo kiếm có khắc câu đối là “Tận trung báu quốc- Bất thụ nô lệ”, có nghĩa là trung thành với đất nước không chịu làm nô lệ. Hiện vật thứ 2 là chiếc áo trấn thủ do Hội Phụ nữ tỉnh Hải Dương tặng cho Bác, nhưng khi nhận Vương Chí Sình là anh em kết nghĩa thì Bác đã tặng chiếc áo ấy cho ông Vương Chí Sình làm vật kỷ niệm”.

Cũng tại cuộc gặp này, Vương Chí Sình được Bác Hồ đổi tên thành Vương Chí Thành, giống tên Nguyễn Tất Thành của Bác để thể hiện tình kết nghĩa keo sơn. Trong đợt tổng tuyển cử bầu Quốc hội tháng 01/1946, ông Vương Chí Thành trúng cử đại biểu Quôc hội khoá I (1946-1960) và tái cử khoá II (1960-1964). Ông Vương Chí Thành còn được bầu làm Chủ tịch uỷ ban hành chính huyện Đồng Văn và giữ một số trọng trách khác.

Năm 1956, tuổi đã cao ông Vương Chí Thành thôi giữ chức Chủ tịch huyện Đồng Văn. Năm 1959 ông được triệu tập về Hà Nội họp Quốc hội, sau đó làm chuyên viên Ủy ban Dân tộc Trung ương. Năm 1962, ông mất tại Hà Nội, thi hài được chuyển về an táng tại thị trấn Phố Bảng (Đồng Văn). Năm 2003 gia đình cải táng chuyển về trước cổng Khu di tích Nhà Vương.

Để ghi nhận những công lao của ông Vương Chí Thành, ngày 31/10/2006, Chủ tịch nước đã truy tặng ông Huân chương Đại đoàn kết dân tộc vì đã có thành tích xuất sắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Dinh thự di tích Nhà Vương được ông Vương Chính Đức mời thầy địa lý tìm địa điểm và bắt đầu xây dựng từ năm 1898, trên một gò đất nổi hình con rùa giữa thung lũng Sà Phìn với tổng diện tích khuôn viên bên trong tường rào đá là 4.876m2.

Ngôi nhà được xây dựng có sự giao thoa giữa kiến trúc của 3 nền văn hóa Hoa- H’Mông-Pháp. Toàn bộ khu dinh thự được chia thành 3 khu, tiền dinh, trung dinh và hậu dinh. Vật liệu xây chủ yếu là đá xanh ở Đồng Văn, gỗ cũng được khai thác ở Đồng Văn. Hơn 100 năm nay ngôi nhà vẫn giữ được nguyên bản từ xưa.

Năm 1993, khu dinh thự được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Đến nay nơi đây trở thành một địa chỉ vừa dành cho du khách tham quan tìm hiểu về những giá trị kiến trúc, nghệ thuật độc đáo, vừa là nơi giáo dục truyền thống cho học sinh.

Theo Thầy giáo Vàng Mí Khành, Phó Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học-Trung học cơ sở Sà Phìn, đây không chỉ là công trình mang dấu ấn lịch sử mà còn có những nét phong thủy độc đáo ngay từ cổng chính bước vào là những bậc đá được xếp theo hình bậc tròn: “Bậc thềm này cũng mang ý nghĩa văn hóa phong thủy, khôn chỉ đón khách từ gần đến xa mà còn có ý nghĩa là mang tài lộc, phồn vinh hạnh phúc đến cho gia đình”.

Chính vì vậy, hai bên trụ cổng chính tòa dinh thự còn khắc đôi câu đối: “Gia tích thiện hiền nhân xuất nhập” nghĩa là: Gia tộc này tích đức, trọng người hiền, sẵn sàng đón mọi người lui tới. “Môn phong lưu quý khách vãng lai” nghĩa là: Cửa gia đình rộng mở đón quý khách đến thăm. Trong gian trung dinh còn có bức hoành phi đại tự có 4 chữ “Biên chính khả phong” nghĩa là “Trấn giữ biên cương”. Bức này được nhà Nguyễn sắc phong vào năm 1923.

Di tích Nhà Vương phản ánh lịch sử của dòng họ Vương, đồng thời là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, là pháo đài lịch sử, là di sản văn hóa, dấu ấn lịch sử của của người H'Mông nói riêng và của Việt Nam nói chung.