Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng, tính đi trước của văn hóa, coi đây là ngọn lửa soi đường, dẫn lối cho dân tộc đi đến thắng lợi: “Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Nhân kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, phóng viên VOV2 có cuộc trao đổi với PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội về những vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Việt Nam.

Phóng viên: Thưa ông, trước tiên xin ông cho biết những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Việt Nam?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một hệ thống quan điểm rất sâu sắc, vừa mang tính triết lý nền tảng, vừa gắn chặt với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong đó, Người đã đưa ra nhiều nhận định mang tính chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một định nghĩa rất toàn diện về văn hóa. Người viết: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Đây là một định nghĩa rất hiện đại, thể hiện tầm tư duy vượt thời đại của Người, khi nhìn nhận văn hóa không chỉ là nghệ thuật hay phong tục, mà là toàn bộ hệ giá trị, cách thức sống, sinh hoạt, sáng tạo của con người - từ vật chất đến tinh thần - trong mối quan hệ với thiên nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
Thứ hai, Người khẳng định rõ vai trò dẫn đường của văn hóa trong phát triển. Câu nói nổi tiếng của Bác: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” không chỉ là lời khẳng định, mà là một mệnh đề mang tính chiến lược. Văn hóa có chức năng định hướng tư tưởng, hành vi, lý tưởng sống, là ngọn đuốc soi sáng con đường cách mạng, cũng như sự phát triển bền vững của đất nước.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh văn hóa, nghệ thuật không thể đứng ngoài cuộc cách mạng. Người nói: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó”. Với quan điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao cho đội ngũ văn nghệ sĩ một vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là người phản ánh hiện thực mà còn là người kiến tạo tinh thần thời đại, khơi dậy khát vọng, hun đúc bản lĩnh và lòng yêu nước của nhân dân. Mỗi tác phẩm văn hóa, nghệ thuật là một vũ khí sắc bén trong đấu tranh tư tưởng, trong xây dựng nhân cách và lan tỏa giá trị dân tộc.
Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn văn hóa với đời sống hằng ngày. Người đề xuất việc xây dựng đời sống mới phải đi liền với xây dựng đạo đức mới, xây dựng lối sống văn minh, nếp sống mới. Với Người, văn hóa không phải là điều xa lạ hay cao siêu, mà là những gì cụ thể, gần gũi nhất với nhân dân, từ cách ăn ở, nói năng, ứng xử cho đến việc giữ gìn vệ sinh, tiết kiệm, thương người như thể thương thân... Tư tưởng đó mang đến một cái nhìn toàn diện về văn hóa, vừa cao cả, vừa đời thường nhưng có sức lan tỏa và thay đổi xã hội một cách sâu sắc, bền bỉ.
Có thể nói, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị và tiếp tục là kim chỉ nam cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đặc biệt trong kỷ nguyên hội nhập và chuyển đổi số hiện nay, việc đặt văn hóa vào vị trí trung tâm - như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra - là điều kiện tiên quyết để chúng ta phát triển nhanh nhưng không mất gốc, hội nhập mà không hòa tan.
Phóng viên: Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của văn hóa trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác được thể hiện như thế nào, thưa ông?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tư duy rất biện chứng, khoa học và nhân văn khi xác lập vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Người không tách rời văn hóa ra khỏi các lĩnh vực khác, mà luôn đặt văn hóa trong mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ với chính trị, kinh tế, xã hội như một chỉnh thể gắn kết để phát triển toàn diện đất nước và con người.
Một trong những quan điểm nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Muốn cứu nước và giữ nước, trước hết phải phát triển kinh tế và văn hóa”. Điều đó cho thấy, ngay từ những năm tháng đầu của cách mạng, Người đã xác định rõ văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là một sức mạnh vật chất, một động lực thúc đẩy mọi tiến trình phát triển. Văn hóa không đi sau, cũng không đứng bên lề chính trị hay kinh tế, mà đi song hành và nâng đỡ cho tất cả.
Câu nói nổi tiếng: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” là minh chứng rõ nhất cho cách nhìn nhận đó. Ở đây, văn hóa giữ vai trò định hướng tư tưởng, đạo đức, lối sống, từ đó dẫn dắt xã hội phát triển đúng hướng, bền vững và có bản sắc. Văn hóa giúp con người có lý tưởng, giúp chính trị có nền tảng đạo đức, giúp kinh tế phát triển có trách nhiệm và nhân văn hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Mà con người ấy, trước hết phải được hình thành trong môi trường văn hóa lành mạnh - nơi bồi đắp nhân cách, tinh thần kỷ luật, trách nhiệm, lòng yêu nước, lòng yêu thương con người. Như vậy, văn hóa đóng vai trò hạt nhân trong việc xây dựng nguồn lực con người - vốn được xem là yếu tố trung tâm, là động lực phát triển mạnh mẽ nhất trong thời đại mới.
Có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, không có một lĩnh vực nào có thể phát triển bền vững nếu thiếu văn hóa. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, và cũng là động lực tinh thần quan trọng nhất để đất nước vượt qua thử thách, hướng tới tương lai. Chính vì thế, trong mọi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò trung tâm của văn hóa vẫn còn nguyên giá trị thời sự và định hướng.
Phóng viên: Thưa ông, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh quan điểm phải giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc có chọn lọc của Người để cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc vừa phù hợp với trình độ văn minh tiên tiến, hiện đại của nhân loại?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Đây là một trong những tư tưởng văn hóa đặc biệt quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện rõ tầm vóc toàn cầu trong tư duy và hành động của Người. Trong suốt hành trình cách mạng của mình, Bác không chỉ trăn trở về việc cứu nước, dựng nước mà còn luôn tâm niệm làm sao để gìn giữ được hồn cốt văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa đã kết tinh qua hàng ngàn năm lịch sử, đồng thời mở lòng tiếp nhận tinh hoa nhân loại để dân tộc ta không bị tụt lại trong dòng chảy văn minh của thế giới.
Người cũng từng nói rất rõ: Văn hóa Việt Nam là kết quả của sự đấu tranh lâu dài, bền bỉ của dân tộc để tồn tại và phát triển, chống lại mọi sự xâm lăng và đồng hóa. Vì vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là giữ lấy linh hồn của một đất nước, là giữ cho dân tộc ta có gốc, có cội, có bản lĩnh để không bị hòa tan trong hội nhập.
Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh không cổ súy cho sự khép kín hay bảo thủ trong văn hóa. Trái lại, Người chủ trương phải “tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” một cách có chọn lọc, có bản lĩnh. Cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ của thế giới, từ tư tưởng nhân văn phương Tây, tinh thần kỷ luật của phương Bắc đến lòng yêu chuộng tự do của phương Nam đều có thể được người Việt tiếp thu nếu phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu phát triển của đất nước. Người nhấn mạnh: Phải biết làm giàu cho văn hóa dân tộc bằng cách học hỏi những cái hay của thế giới, nhưng không được đánh mất mình.
Đó là một tư tưởng rất hiện đại, rất gần với tinh thần toàn cầu hóa ngày nay, khi mỗi quốc gia không chỉ hội nhập mà còn phải biết giữ mình, định hình mình trong muôn màu bản sắc. Văn hóa, theo Người, không chỉ là tấm áo truyền thống, mà còn là trí tuệ và tâm hồn của dân tộc - cái làm nên bản lĩnh, sức mạnh mềm và giá trị cạnh tranh trong thời đại mới.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo tồn bản sắc gắn liền với đổi mới, tiếp thu có chọn lọc gắn với kiên định bản lĩnh, chính là định hướng quan trọng để chúng ta phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - như Đảng ta đã xác định. Trong thời đại chuyển đổi số, khi sự lai căng và đồng hóa văn hóa diễn ra rất nhanh, thì việc khơi lại và hiện thực hóa tư tưởng này càng trở nên cấp thiết.
Nói cách khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ cho chúng ta con đường dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế, để văn hóa Việt Nam vừa có bản sắc riêng, vừa mang tính thời đại, vừa là gốc rễ tinh thần, vừa là cánh cửa mở ra tương lai hội nhập và phát triển.
Phóng viên: Để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh và động lực phát triển của đất nước, chúng ta cần thực hiện những giải pháp nào, thưa ông?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Đây là câu hỏi rất lớn, nhưng đồng thời cũng rất thiết thực, bởi lẽ trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng: Muốn cứu nước và giữ nước phải phát triển văn hóa; và ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần cụ thể hóa tư tưởng đó bằng hành động để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh của phát triển bền vững.
Trước hết, chúng ta phải đặt văn hóa vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển quốc gia. Điều này không chỉ dừng lại ở lời nói, mà phải thể hiện trong quy hoạch, phân bổ nguồn lực, trong chính sách đầu tư, giáo dục, truyền thông, và trong cả tư duy lãnh đạo. Văn hóa không thể là thứ đến sau, mà phải là cái đi trước – soi đường, dẫn dắt, làm nền cho kinh tế và chính trị phát triển đúng hướng, bền vững và nhân văn.
Thứ hai, cần phát huy vai trò của con người như là trung tâm và chủ thể sáng tạo của văn hóa. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển con người là mục tiêu cao nhất của văn hóa. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao dân trí, nuôi dưỡng lý tưởng sống đẹp, khơi dậy khát vọng vươn lên trong mỗi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đây là nền tảng để hình thành một xã hội có văn hóa, có trách nhiệm và có nội lực.
Thứ ba, phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh từ trong gia đình, nhà trường đến xã hội. Văn hóa không phải chỉ có trong sách vở hay trên sân khấu, mà phải sống động trong đời sống hằng ngày, từ lời ăn tiếng nói, cách ứng xử đến cách tổ chức công việc, lễ nghi, phong tục. Muốn vậy, cần một hệ thống chính sách đồng bộ để lan tỏa văn hóa tích cực, đẩy lùi các biểu hiện lệch chuẩn, phản văn hóa, nhất là trên không gian mạng, nơi văn hóa có thể được lan truyền nhanh nhưng cũng dễ bị biến dạng.
Thứ tư, đầu tư cho công nghiệp văn hóa và sáng tạo phải được xem là chiến lược lâu dài. Chúng ta đang sống trong thời đại mà giá trị văn hóa không chỉ nằm ở chiều sâu tinh thần mà còn có thể tạo ra giá trị kinh tế lớn. Việc thúc đẩy các ngành như điện ảnh, âm nhạc, thời trang, du lịch văn hóa, trò chơi điện tử, xuất bản... không chỉ góp phần xây dựng bản sắc mà còn mở rộng không gian ảnh hưởng của Việt Nam ra thế giới.
Thứ năm, phải có thể chế mạnh cho phát triển văn hóa. Đó là hệ thống luật pháp, chính sách, bộ máy quản lý, cơ chế tài chính... đủ linh hoạt và hiệu quả để hỗ trợ văn hóa phát triển đúng với vai trò là nền tảng, là động lực của tiến trình phát triển đất nước. Văn hóa không thể mạnh nếu thiếu thể chế mạnh.
Và cuối cùng, điều quan trọng nhất - như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn văn hóa đi sâu vào lòng dân thì cán bộ phải làm gương”. Vì thế, đội ngũ cán bộ làm văn hóa, từ trung ương đến địa phương, phải thật sự tâm huyết, có tầm nhìn, có năng lực quản lý và phẩm chất đạo đức. Họ chính là người truyền lửa, giữ lửa và lan tỏa văn hóa trong cộng đồng.
Tóm lại, để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh và động lực phát triển đất nước, chúng ta không chỉ cần những chính sách đúng, mà còn cần một khát vọng lớn và một hành động kiên trì – đúng như tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa là để làm cho con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn, đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn.”
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!