Sau cuộc hẹn ngắn ngủi qua điện thoại, những cựu binh của tàu 11 anh hùng ngày ấy có mặt đông đủ tại nhà riêng của Thượng tá Hoàng Văn Thể - thuyền trưởng tàu săn ngầm 11. Cuộc hội ngộ đặc biệt sau nhiều năm sự kiện cứu phi công Mỹ ở Trường Sa. “Dẫu sự kiện đã hơn 1/3 thế kỷ, nhưng sao mà chúng tôi quên được. Đó là một trong những kỷ niệm đẹp trong cuộc đời lính biển”- Đại tá Trần Văn Giáo – nguyên máy phó của tàu HQ – 11 nói

Cựu chiến binh Trần Văn Giáo kể: 11 giờ 15 phút ngày 10-7-1988, cán bộ, chiến sĩ tàu HQ-11 ăn cơm vừa xong chuẩn bị nghỉ trưa, thì bất chợt phát hiện tiếng máy bay gầm rú phía đông đảo Đá Lớn. Chiếc máy bay loạng choạng phía bắc đảo Đá Lớn, rồi đâm nhào xuống biển cách tàu 1 hải lý. Tất cả cán bộ, chiến sĩ trên tàu chỉ kịp nhìn thấy một luồng sóng trắng xoá, rồi từ đó hiện lên một chiếc phao cao su, trên đó có 3 người. Thuyền phó quân sự Đại uý Hoàng Văn Thể nhận lệnh hạ hai xuồng cứu sinh và trực tiếp chỉ huy một tiểu đội nhanh chóng cơ động về phía máy bay gặp nạn để cứu người. Khi tiếp cận, những người bị nạn vô cùng hoảng hốt. Một phi công đang cầm bộ đàm liên lạc với người của họ.

Thuyền phó Hoàng Văn Thể nói bằng tiếng Anh: “Chúng tôi là cán bộ, chiến sĩ Hải quân Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng cứu các bạn”. Ba phi công mừng rỡ lộ rõ trên khuôn mặt. Một phi công nữ nói và ra hiệu chị đang có thai, xin được cứu chị. “Sau khi nghe nữ phi công nói như vậy, tôi liền ra lệnh cho tổ xuồng chuyển họ xuống xuồng rồi đưa họ về tàu. Ngay khi bước chân lên tàu, chúng tôi tổ chức đón tiếp ân cần, thân thiện và khám sức khoẻ cho phi công nữ đang mang thai. Biết đứa con trong bụng còn sống, chị đã khóc. Tên chị là Stein Necker nhân viên, còn hai người kia là Richard Kamaurer (chỉ huy tổ lái) và nhân viên Michael Rneel.

Ngay sau khi 3 phi công Mỹ ổn định tinh thần, Thuyền phó Thể cử Trung úy máy trưởng Nguyễn Huy Tuấn trực tiếp làm việc với 3 phi công gặp nạn. Qua tiếp xúc được biết họ là thành viên của đoàn bay CT-39-NALO192 hải quân Mỹ (Hạm đội Thái Bình Dương). Hôm đó họ đi làm nhiệm vụ từ Hàn Quốc đến căn cứ hải quân Subic (Philippines) thì gặp thời tiết xấu, máy bay không thể hạ cánh được, bèn bay vòng ra biển thì gặp nạn.

Cựu binh Hoàng Văn Thể cho biết: Thời điểm ấy, tàu HQ-11 đi làm nhiệm vụ trên biển xa đã 73 ngày. Lương thực thực phẩm, rau xanh, nước ngọt đã cạn. Giữa biển khơi bao la nắng và gió, 106 cán bộ, chiến sĩ đã phải chắt chiu chia nhau từng ca nước ngọt, nhường nhau từng cọng rau xanh, nhưng không nỡ để 3 phi công thiếu thốn. “Chúng tôi đã phát động phong trào tiết kiệm: “Mỗi người nhịn tắm 7 ngày dành nước ngọt cho 3 phi công”. Thấy mấy vị không ăn được cơm, Ban Chỉ huy tàu cho lấy mì tôm và sữa hộp đặc (dự trữ) cho họ… Nơi ăn, nghỉ của bạn được cán bộ, chiến sĩ tàu HQ-11 chăm sóc chu đáo - ông Thể kể.

Sau khi liên lạc với Hoa Kỳ theo đường ngoại giao, sáng 13-7-1988, ba phi công gặp nạn được tàu của Hải đoàn 128 Hải quân đón về đất liền. Cuộc chia tay đầy xúc động. Phi công Richard Kamaurer (chỉ huy tổ lái) nói: “Xin cảm ơn bộ đội Việt Nam. Cảm ơn các bạn. Nếu không có các bạn, chúng tôi đã bị đắm chìm dưới đại dương bao la này”. Còn chị Stein Necker đã bật khóc. Cô xin mảnh giấy, mượn bút viết vội mấy chữ thay lời cảm ơn gửi lại: “Cảm ơn các bạn đã cứu chúng tôi từ lòng biển cả. Lòng mến khách của các bạn thật tuyệt vời. Cảm ơn các bạn rất nhiều và chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau”.

Mấy dòng chữ của nữ phi công Mỹ viết vội ngày nào đã thành kỷ vật thiêng liêng đặt khiêm tốn trong Phòng truyền thống của Lữ đoàn 171 Hải quân. Mỗi lần nhớ đến, như nhắc lại một kỷ niệm đẹp về lòng nhân ái của những người lính Cụ Hồ. Được biết đứa con trai của người nữ phi công Stein Necker được sinh ra trên đất Mỹ và được chị đặt tên con là HQ11 - tên con tàu với những người lính Hải quân dũng cảm đầy lòng nhân ái đã cứu mẹ con chị thoát nạn giữa đại dương bao la.

(Theo Cựu chiến binh Việt Nam)