Trong quá trình toàn cầu hóa, công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng góp phần tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu kinh tế cũng như tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ngành công nghiệp hỗ trợ nước ta cũng đã có nhiều khởi sắc trong những năm qua cả về số lượng và chất lượng, chiếm khoảng 4,5% tổng số doanh nghiệp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Theo ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), công nghiệp hỗ trợ góp phần tăng cường sự liên kết trong chuỗi cung ứng của các ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như dệt may, da giày, điện tử, nông nghiệp, thủy sản… với các thị trường lớn và khó tính như Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức về quy mô, kinh nghiệm, năng lực, thị phần, thương hiệu… đòi hỏi nỗ lực của nhiều bên để công nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh mẽ hơn, nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu của các đối tác và khách hàng đa quốc gia.

Phân tích về thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ, ông Phạm Thanh Tùng, Phòng Công nghiệp hỗ trợ, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước còn đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp còn thấp, đơn cử ngành điện tử chỉ từ 5-10%; ngành ô tô từ 7-10%; ngành dệt may, da giày từ 45-50%. Ông Phạm Thanh Tùng chỉ ra yếu kém của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước là do thiếu nguồn lực để đổi mới; chưa đủ năng lực cung cấp linh kiện và phụ tùng có hàm lượng công nghệ cao, kỹ thuật phức tạp đáp ứng các yêu cầu để tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

Trước thực trạng này, các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trơ cần tăng cường áp dụng các giải pháp linh hoạt trong quản lý, điều hành sản xuất, thúc đẩy sáng kiến, đổi mới mô hình kinh doanh để đảm bảo kinh doanh liên tục, nâng cao năng suất lao động, tuân thủ các tiêu chuẩn hơn nữa.

Đề cập tỷ lệ nội hóa trong phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, bà Đỗ Thị Thúy Hương, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cho biết, trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập toàn cầu như hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa bao nhiêu phần trăm không quan trọng bằng hàm lượng công nghệ đóng góp cho chuỗi giá trị là bao nhiêu, Đây mới là điều mới quan trọng và là mấu chốt vì xác định đóng góp vào hàm lượng công nghệ cao trong từng sản phẩm mới là ý nghĩa mà công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cần hướng tới.

Còn theo ông Ngô Khải Hoàn, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp, thời gian qua đã có nhiều cơ chế, chính sách đã được ban hành nhằm thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Cục Công nghiệp đã triển khai nhiều hoạt động hợp tác với các đơn vị, tổ chức trong nước cũng như quốc tế, các doanh nghiệp FDI lớn tại Việt Nam nhằm hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội để các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Hiện Bộ Công Thương cũng đang phối hợp với các cơ quan đơn vị triển khai Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2016-2025 theo Quyết định số 68/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 18/1/2017, nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội địa và tăng cường kết nối, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong thời gian tới, Cục Công nghiệp sẽ tiếp tục triển khai thêm nhiều hoạt động hợp tác song phương và đa phương, ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu./.