Chị Nguyễn Ngọc Diệp ở phường Phương Mai, thành phố Hà Nội còn nhớ rõ ngày con mình bị bỏng nước sôi. Chỉ một phút sơ ý của người lớn, cháu nhỏ hơn 10 tháng tuổi đã đánh vỡ phích nước mới đun, khiến bàn tay trái bị bỏng nghiêm trọng, các ngón tay dính liền với nhau. Đến tận khi con hơn 3 tuổi, vết thương lành hẳn, gia đình chị mới có thể cho con làm phẫu thuật tách rời các ngón tay và phải lấy da ở vùng khác đắp vào các ngón tay đó.
Theo các chuyên gia, đa số trường hợp trẻ bị bỏng là do sự bất cẩn của người lớn trong quá trình trông nom, chăm sóc trẻ. Có những trẻ bị bỏng nặng khi cùng mẹ pha nước tắm, có bé bị bỏng do tiếp xúc với chiếc bàn là đang cắm điện… Do lớp da trẻ em có những đặc điểm khác người lớn, da mỏng hơn da người lớn, sức chịu nhiệt kém nên mức độ bỏng nặng, sâu hơn người lớn, thậm chí gây tổn thương tận cơ, xương, mạch máu, thần kinh… Quá trình điều trị và hồi phục cho trẻ bị bỏng cũng chậm hơn so với người lớn.
Trong sinh hoạt hàng ngày, có khá nhiều tác nhân có thể gây bỏng mà chúng ta thường không để ý đến. Phổ biến nhất là bỏng nhiệt (do tiếp xúc với nước sôi, lửa, dầu mỡ nóng, vật kim loại được nung nóng hoặc hơi nóng), bỏng điện (thường xảy ra khi tiếp xúc trực tiếp với nguồn điện hoặc thiết bị điện bị rò rỉ), bỏng hóa chất (do tiếp xúc với các loại hóa chất ăn mòn như axit, bazơ trong thuốc tẩy, nước lau sàn, hay sản phẩm tẩy rửa mạnh), bỏng do bức xạ (bỏng nắng hoặc tiếp xúc quá lâu với các nguồn tia UV hoặc tia xạ trị). Mỗi loại bỏng có cơ chế tổn thương khác nhau nên cần có cách xử lý phù hợp.
Bác sĩ chuyên khoa I Lý Thị Phong, bệnh viện An Việt cho biết:
- Người bị bỏng cần được sơ cứu khẩn cấp trong các trường hợp như bỏng diện rộng, chiếm hơn 10% diện tích cơ thể (với người lớn) hoặc bỏng ở trẻ em và người già dù chỉ với diện tích nhỏ;
- Bỏng ở vùng nguy hiểm như mặt, cổ, tay, chân, bộ phận sinh dục hoặc vùng ngực;
- Bỏng do điện, hóa chất hoặc có dấu hiệu hít phải khói nóng gây bỏng đường hô hấp;
- Bỏng kèm triệu chứng toàn thân như khó thở, sốc, ngất xỉu hoặc vết thương sâu, loét.

Bỏng nhiệt là loại bỏng thường gặp nhất trong sinh hoạt. Vì vậy, bác sĩ Lý Thị Phong tư vấn: Khi bỏng do nhiệt, người nhà có thể sơ cứu theo 4 bước cơ bản sau:
- Loại bỏ tác nhân gây bỏng;
- Làm mát vùng bỏng ngay lập tức như xả vết bỏng dưới vòi nước mát, không lạnh trong vòng 15-20p giúp giảm đau và hạn chế tổn thương lan rộng;
- Bảo vệ vết bỏng (dùng gạc sạch, băng vải không dính, hoặc khăn mỏng sạch để che vết bỏng, tránh nhiễm trùng, không nên chọc vỡ bọng nước);
- Đưa đến cơ sở y tế nếu vết bỏng rộng, sâu hoặc ở vị trí nguy hiểm.
Để phòng ngừa bỏng trong gia đình, có thể áp dụng các biện pháp sau: luôn giám sát trẻ nhỏ, đặc biệt khi nấu ăn, sử dụng nước nóng hoặc thiết bị điện;
- Đặt thiết bị nóng như bàn ủi, nồi nước, bếp gas… ngoài tầm với của trẻ;
- Sử dụng ổ điện an toàn, kiểm tra thường xuyên và không dùng dây điện bị hở;
- Cất giữ hóa chất, chất tẩy rửa ở nơi cao, có khóa, tránh xa trẻ em;
- Trang bị bình chữa cháy và học cách sử dụng khi có sự cố xảy ra;
- Không đổ nước vào chảo dầu đang bốc cháy vì sẽ gây bùng lửa rất nguy hiểm.
Lưu ý khi sơ cứu vết thương bỏng:
- Không chọc vỡ bọng nước vì điều đó làm tăng nguy cơ nhiễm trùng;
- Không bôi bất kỳ chất gì lên vết bỏng (nước mắm, nước tương, kem đánh răng hoặc các chất dân gian chưa kiểm chứng) ngoài các sản phẩm y tế được khuyến cáo;
- Không dùng đá lạnh trực tiếp vì có thể gây bỏng lạnh và làm tổn thương mô sâu hơn;
- Với bỏng nặng đưa người nhà đến bệnh viện càng sớm càng tốt, tuyệt đối không tự ý điều trị tại nhà.