Cả hai từ bàng quang và bàng quan đều là từ Hán - Việt, có nghĩa khác nhau hoàn toàn. Nhưng do có vỏ âm thanh gần nhau nên người ta dễ nhầm lẫn.
Bàng quang: là danh từ, có từ thuần Việt tương ứng là bọng đái, bóng đái. Đó là là cơ quan chứa nước tiểu do thận tiết ra trước khi thoát ra ngoài cơ thể theo quá trình đi tiểu.
Bàng quan: động từ hoặc tính từ, có từ gần nghĩa là thờ ơ, làm ngơ, bỏ lơ có nghĩa là tự coi mình là người ngoài cuộc, coi là không dính líu đến mình. Trong từ này "bàng" có nghĩa là bên cạnh; "quan" nghĩa là xem, nhìn nhận, quan sát.
Tuy nhiên, theo TS Phạm Văn Lam - Tổng Thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, người ta hay sử dụng từ "bàng quang" với cả hai nghĩa trên, do "bàng quang" chỉ bộ phận có thể người mà ai cũng có, thời hiện đại nhiều người mắc bệnh, nên quen thuộc hơn, có tần số sử dụng nhiều hơn. Hơn nữa, ở "bàng quang" đã diễn ra một quá trình biến đổi ngữ âm mà người ta gọi là đồng hóa. Chữ quan dễ bị phát âm thành quang do ảnh hưởng của bàng đi trước.

Một trường hợp nữa cũng dễ có sự nhầm lẫn trong cách sử dụng là từ tham quan và thăm quan.
Các từ điển hiện nay chỉ ghi nhận từ "tham quan" với nghĩa thường được giải thích là "đi xem tận nơi, tận mắt để mở rộng hiểu biết hoặc để học tập kinh nghiệm".
Còn "thăm quan" tuy được sử dụng nhiều và dễ hiểu nhưng lại không được các từ điển ghi nhận. "Thăm quan" thường được hiểu với nghĩa là "đi chơi, đi du lịch, khám phá…" và chúng ta cũng sử dụng thăm quan để thay thế cho tham quan.
Với cách lập luận như vậy, nhiều người cho rằng nói thăm quan là sai, phải nói "tham quan" nhưng thực tế là người Việt thường chỉ nói thăm quan và khi nói vậy họ hiểu với nghĩa "đi chơi, đi thăm thú, khám phá, du lịch, với mục đích giải trí, nghỉ ngơi", chứ người ta không hiểu là “đi xem tận nơi, tận mắt để mở rộng hiểu biết hoặc để học tập kinh nghiệm”.
Hơn nữa, "tham quan" dễ bị hiểu nhầm thành danh từ, là người, là quan tham (như trong cách nói tham quan ô lại). Nói thăm quan vì đã có thăm nom, thăm hỏi, thăm viếng. Và người Việt hiểu thăm là “đi đến tận nơi xem xét, hỏi han, chia sẻ, với mục đích là nắm bắt tình hình”. Cho nên, nói thăm quan (trong cách nói đoàn thăm quan, xe thăm quan) với nghĩa đi chơi, đi du lịch khám phá để giải trí là không sai.
"Nếu ai đó giải thích rằng từ thăm thuần Việt không thể đi với quan Hán Việt là một cách giải thích gượng ép, khiên cưỡng, không đứng thực tế sử dụng, không đúng với cảm thức tiếng Việt. Giải thích như vậy là bê tiếng Hán áp cho tiếng Việt, bê cách sử dụng của người Hán áp cho người Việt. Nếu muốn giữ và hiểu tham quan như vậy thì vẫn được. Nhưng thăm quan có nghĩa riêng của nó là “đi chơi, du lịch, với mục đích giải trí, nghỉ ngơi, khám phá”, khác với nghĩa tham quan (là học tập kinh nghiệm). Bắt người Việt nói và hiểu thăm quan như tham quan là gọt chân cho vừa giày." - TS Phạm Văn Lam cho hay.
Đồng thời, ông đề xuất: "Tôi cho rằng các từ điển cần thu thập và ghi nhận nghĩa của từ thăm quan. Không có lí gì một từ bình thường mà ai cũng hiểu, thường được sử dụng mà lại không được ghi nhận, mà lại đánh đồng nó với một hình thức từ mà người bản ngữ không mấy khi sử dụng".
Theo TS Phạm Văn Lam, hiện tượng như bàng quan - bàng quang, tham quan - thăm quan gọi là hiện tượng loại suy ngôn ngữ. Do sự gần gũi nhau về ngữ âm và ngữ nghĩa nên người ta đã sử dụng thay thế hay lẫn lộn cho nhau. Vỏ ngữ âm nào quen thuộc, được sử dụng nhiều, dễ hiểu… thì sẽ được người ta sử dụng nhiều để thay thế cho các từ khác. Việc sử dụng nhầm lẫn những cặp từ như, sát nhập – sáp nhập, phong phanh – phong thanh,… cũng được giải thích theo nguyên tắc loại suy này.