Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của GS.NGƯT Đỗ Đức Hiểu - chuyên gia về Văn học Phương tây, nhà khoa học có di sản lớn với các tác phẩm nghiên cứu, dịch thuật, người có tác động, ảnh hưởng lớn đến giới nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn - ĐHQG Hà Nội đã tổ chức Tọa đàm khoa học với chủ đề “100 năm ngày sinh Giáo sư, Nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu”.

Tọa đàm khoa học “100 năm ngày sinh Giáo sư, Nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu” thu hút sự tham dự của các nhà khoa học, đông đảo đồng nghiệp, các thế hệ học trò, giảng viên và sinh viên Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN cùng đại diện gia đình của giáo sư. Những xúc cảm chứa chan tưởng nhớ về giáo sư đã mang đến cho tọa đàm một không khí thật ấm cúng, chân tình.

Trân trọng những đóng góp to lớn và những di sản quý báu của Giáo sư, Nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu, GS.TS Hoàng Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN cho biết, tọa đàm nhằm tưởng nhớ, tri ân và tôn vinh những đóng góp của Giáo sư cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường nói riêng và của Việt Nam nói chung.

Điểm lại một số dấu ấn quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của Giáo sư Đỗ Đức Hiểu, PGS.TS Phạm Xuân Thạch - Trưởng khoa Văn học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN nhấn mạnh, GS.NGƯT Đỗ Đức Hiểu đã hiện diện trong những khoảnh khắc quan trọng của ngành nghiên cứu văn học, là nhà khoa học đã có tác động đến toàn bộ giới nghiên cứu văn học Việt Nam, nhà nghiên cứu có vị trí đặc biệt trong đời sống nghiên cứu văn học Việt Nam sau năm 1954. Người đặt viên đá tảng đầu tiên cho nhiều công trình quan trọng của nghiên cứu văn học, dịch thuật tại Việt Nam.

Sau thế hệ các học giả: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Xuân Nhị..., Giáo sư, Nhà giáo Ưu tú Đỗ Đức Hiểu thuộc thế hệ thứ hai đóng góp công sức xây dựng ngành Ngữ Văn của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

GS. Đỗ Đức Hiểu là một trong những nhà nghiên cứu văn học được giới chuyên môn đánh giá cao. GS đã để lại hàng ngàn trang viết gồm giáo trình, nghiên cứu, dịch thuật, đặt những tiền đề hiện đại hóa phê bình văn học thời kỳ Đổi mới.

Ông là người đứng đầu chủ biên bộ Từ điển văn học (hai tập) năm 1984, trong đó là tác giả của 67 mục; ông là chủ biên cùng với các đồng nghiệp của 10 tập Giáo trình Lịch sử văn học Pháp từ thời cổ đại đến nay. Ông là dịch giả nhiều tác phẩm của các tác giả tiêu biểu trong văn học Pháp như Tartuffe, Anh ghét đời, Lão hà tiện của Molière (thế kỉ XVII), Paul và Virginie của Bernardin de Saint-Pierre (thế kỷ XVIII), kịch Marion Delorme và tiểu thuyết Những nguời khốn khổ (dịch chung) của V.Hugo (thế kỷ XIX)...; trong bộ Tuyển tác phẩm văn học Pháp song ngữ, ông chủ biên và dịch phần lớn tập II (thế kỷ XVII).

Trong khoảng từ năm 1992 đến năm 2002, GS. Đỗ Đức Hiểu dành tâm huyết viết ba công trình về đổi mới cách đọc và bình văn: Đổi mới phê bình văn học (1993), Đổi mới đọc và bình văn (1999), Thi pháp hiện đại (2000).

Là một chuyên gia hàng đầu về văn học phương Tây, GS. Đỗ Đức Hiểu còn là tác giả của không ít những trang viết tinh tế, sâu sắc về văn học Việt Nam với cách tiếp cận thi pháp mới mẻ: về thơ Hồ Xuân Hương, về Truyện Kiều, về thơ Nguyễn Nhược Pháp, Lưu Trọng Lư, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thế Lữ…

Trong tham luận đề dẫn tại tọa đàm, nhà giáo Trần Hinh - nguyên Trưởng Bộ môn Văn học Phương Tây, Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH&NV chia sẻ: “Thật rất khó có thể xếp ông chỉ riêng vào một lĩnh vực chật hẹp nào đó. Chẳng hạn, nếu cho rằng ông là một chuyên gia có hạng về văn học phương Tây, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Bởi lẽ, bên cạnh những trang viết sắc sảo về mảng văn học này, ta còn bắt gặp không ít những trang viết tinh tế, sâu sắc của ông về văn học Việt Nam; thậm chí nhiều người cho rằng, ông phải là một chuyên gia về văn học Việt Nam mới đúng".

"Đọc những trang viết của Đỗ Đức Hiểu, có lúc, người ta nhận ra trong đó kiến thức của một bậc hàn lâm, bởi lẽ, từ cách đặt vấn đề, lý giải vấn đề đến dẫn giải tư liệu, phân tích văn bản, ông không khác gì một giáo sư Pháp học thực sự; lại có khi, ông viết những trang văn réo rắt, trong trẻo như một “cậu học trò” phổ thông. Quả thật, rất khó “định giá” phẩm chất nào ưu thế hơn phẩm chất nào?”

Tại tọa đàm, rất nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc đời, sự nghiệp và con người của GS. NGƯT Đỗ Đức Hiểu đã được các thế hệ đồng nghiệp, học trò, các nhà nghiên cứu sẻ chia một cách đầy trân quý, như: “Nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu và công trình tập thể “Từ điển văn học” (1983-1984; 2004)" của Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân; “Thầy Đỗ Đức Hiểu và thi pháp kịch” của PGS.TS Lê Nguyên Cẩn; "Giáo sư Đỗ Đức Hiểu và quá trình tìm tòi đổi mới phương pháp nghiên cứu thi pháp học ở Việt Nam” của nhà giáo Trần Hinh; “Nhớ Đỗ Đức Hiểu - dịch giả” của NGND Lê Hồng Sâm; “Thầy tôi - Giáo sư Đỗ Đức Hiểu một cách thể đối diện thế giới phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa trong bối cảnh những năm 1970” của PGS.TS Phạm Xuân Thạch... Dự kiến, hơn 30 tham luận của tọa đàm sẽ được xuất bản thành cuốn sách viết về giáo sư Đỗ Đức Hiểu trong thời gian sớm nhất.

PGS.TS Phạm Thành Hưng (Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH&NV) trong tham luận với chủ đề “Giáo sư Đỗ Đức Hiểu như một nhà phê bình mới” lý giải, tiêu đề của tham luận được đặt thêm hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất: GS. Đỗ Đức Hiểu được ngưỡng mộ như một nhà Phê bình Mới, nghĩa thứ hai: Giáo sư được tôn vinh và tri ân như một trong số rất ít những nhà phê bình tiên phong, “làm mới” đời sống sáng tác - nghiên cứu - phê bình văn học Việt Nam.

Phó giáo sư Phạm Thành Hưng nhấn mạnh: “Đi tiên phong trong đội ngũ những người đổi mới văn học, đổi mới tư duy phê bình và sáng tác nghệ thuật, Giáo sư Đỗ Đức Hiểu đã góp phần hồi hương cho văn học trở về đúng quê nhà của nó, về đúng vị trí chức năng của nó. Phê bình thi pháp không phải chỉ là một xu hướng phê bình mà là phê bình nghệ thuật thực sự, chính danh phê bình”.

Nhớ về Giáo sư Đỗ Đức Hiểu - người thầy nhẹ nhàng, khiêm tốn với sức làm việc phi thường. Nhớ lại những năm tháng giảng dạy và nghiên cứu khoa học đầy trách nhiệm, đam mê của người cha thân yêu, ông Võ Minh Khuê - con trai của GS. NGUT Đỗ Đức Hiểu cho biết, trong suốt thời gian đó, giáo sư được bổ nhiệm nhiều chức vụ tại các đơn vị khác nhau, nhưng thầy luôn luôn hướng về khoa Văn học và đã gắn bó đến cuối đời với khoa Văn học - ĐH Tổng hợp, nay là khoa Văn học – Trường ĐH KHXH&NV.

PGS.TS Nguyễn Trường Lịch nhắc nhớ về người thầy Đỗ Đức Hiểu trong ngày khai giảng khóa đầu tiên của sinh viên trường ĐH Tổng hợp năm 1956, thầy Hiểu phụ trách Bộ môn Văn học Pháp. “Nếu ai gặp thầy Hiểu lần đầu thì cứ nghi là thầy khó trao đổi, chuyện trò. Nhưng thầy Hiểu là người tuy ít nói, nhưng lại rất nhẹ nhàng, khiêm tốn và rất uyên thâm, say sưa trong giảng dạy.

Điều đáng quý ở thầy Hiểu là hết sức điềm đạm, bình tĩnh và không cần thiết phải nhiều lời. Tôi có cảm tưởng như thầy Hiểu là người được sinh ra để nghiên cứu khoa học, trưởng thành trong thư viện, chứ không phải ở hội trường rộng lớn! Đáng tiếc là sức khỏe của Thầy không được tốt, và hoàn cảnh làm việc cũng khó khăn” - PGS.TS Nguyễn Trường Lịch chia sẻ.

Nhớ về thầy Đỗ Đức Hiểu, thầy Trần Hinh viết: “Gần như tất cả các thế hệ đồng nghiệp và học trò của ông đều dễ dàng hình dung ra một Đỗ Đức Hiểu thế này: gầy gò, xanh xao, đôi khi có cảm giác “thiếu sức sống”, ngồi gần nói chuyện với ai thì chỉ “thẽ thọt”, nhẹ nhàng, nhưng khi giảng bài thì giọng ông âm vang như sóng biển ngày lộng gió, sinh viên ngồi ở phía cuối lớp vẫn có thể nghe được hết từng âm thanh rành rọt của ông.

Sức làm việc của giáo sư Đỗ Đức Hiểu thì thật sự phi thường. Thật khó ai có thể hình dung nổi, một người bị cắt tới hai phần ba dạ dày ngay từ tuổi thanh niên, hình hài gày gò vậy mà vẫn đạp xe đều đặn hàng ngày, dù mưa hay nắng, vẫn không hề sai giờ, từ 26 phố Hàng Bài vào ký túc xá Mễ Trì, địa bàn đóng đô của hai khoa Văn, Sử những năm 70, khi còn là Phó chủ nhiệm khoa Ngữ Văn; đêm về, lại “còng lưng” xuống những trang sách (do mắt kém, phải đeo kính cận trên 5 điôp), để cho ra đời hàng ngàn trang viết âm vang sáng tạo cho nhiều thế hệ học trò. Những năm cuối đời do bệnh tật, giữa những cơn đau, tôi biết, giáo sư Đỗ Đức Hiểu vẫn đọc, làm việc, mặc dù, dường như đã đến lúc sức khoẻ không cho phép ông còn đủ minh mẫn để viết ra những ý tưởng sáng tạo như những vỉa trầm tích có sẵn trong đầu mình”.

Trong hồi ký của TS. Nguyễn Huy Hoàng (cựu sinh viên khóa 17, giảng viên Khoa Văn) về GS.NGUT Đỗ Đức Hiểu: “Đó là một người suốt cuộc đời lao động. Thầy không có thì giờ để dành cho chuyện sinh kế hay mọi thứ phù phiếm ở đời. Hàng chục cuốn sách, hàng trăm bài khảo cứu của Thầy là kết quả của một đời làm việc, vắt đến kiệt sức mình không hề vì danh lợi. Thầy đứng bên ngoài mọi sự đua chen tranh giành, bầu bán, Thầy chỉ mang trên mình cây Thánh giá thiêng liêng là sự nghiệp giáo dục của mình” (Hồi ký “Trăm năm cũng từ đây” - NXB Văn học - Hà Nội).

100 năm ngày sinh của GS Đỗ Đức Hiểu, và cả những năm sau này nữa những nhà nghiên cứu, những người đọc, những đồng nghiệp và học trò vẫn nhớ về ông bằng tình cảm trân quý và biết ơn đối với thầy, một nhà nghiên cứu có tâm có tài và có tầm. Hình ảnh ông, sự nghiêm túc của ông trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tầm nhìn và cách tiếp cận của ông với văn học Phương Tây, văn học Việt Nam và những di sản lý luận, dịch thuật mà ông để lại qua nhiều năm vẫn còn nguyên giá trị bởi nó được chắt lọc từ cả quá trình lao động khoa học nghiêm túc, từ trí tuệ, từ triết lý khai phóng tiên phong và nó bền vững, đậm chất nhân văn bởi mọi điều đều bắt đầu từ con người, vì con người.