Chúng ta đang sống trong một thời đại mà văn hóa không chỉ là bản sắc, truyền thống hay tinh thần - mà còn là một nguồn lực phát triển quan trọng của quốc gia. Tại Việt Nam, với nền văn hóa phong phú, tài nguyên di sản đồ sộ, cộng đồng sáng tạo trẻ đầy năng lượng và sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ, tiềm năng phát triển công nghiệp văn hóa là rất lớn. Những lĩnh vực như điện ảnh, du lịch, thời trang, thiết kế, mỹ thuật, trò chơi điện tử, thủ công mỹ nghệ, âm nhạc… đều cho thấy sự bứt phá đáng kể trong vài năm trở lại đây.

Theo ông Lê Minh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả, Bộ VHTT&DL, đến thời điểm này, thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” không còn xa lạ với nhiều người. Việt Nam với sự đa dạng về văn hóa cũng được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn về phát triển công nghiệp văn hóa. Trong đó những lĩnh vực, những câu chuyện hấp dẫn về lịch sử và một nền văn hóa lôi cuốn, đa dạng trong thống nhất, giá trị của văn hóa truyền thống... là chất liệu để tạo ra các sản phẩm công nghiệp văn hóa đặc sắc.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có di sản văn hóa phong phú, tài nguyên thiên nhiên đa dạng. Trong thời gian qua, các di sản văn hóa đã khẳng định được vai trò là tài nguyên, tài sản quan trọng để trở thành chất liệu cho các sản phẩm công nghiệp văn hóa. Cộng thêm là ngày càng có nhiều tài năng trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật... đã tạo nên những lợi thế cho công cuộc phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam ngày 22/12/2023 đánh giá, các ngành công nghiệp văn hóa đã đóng góp tích cực vào kinh tế - xã hội của đất nước, giá trị sản xuất giai đoạn 2018 - 2022 ước bình quân đạt 1,059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế đạt 7,21%/năm, thu hút trung bình khoảng 1,7 triệu đến 2,3 triệu lao động. Bình quân 5 năm tốc độ tăng trưởng về giá trị xuất khẩu trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt 4,3%/năm, chiếm khoảng 16,2% giá trị xuất khẩu của cả nước năm 2022.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, tiềm năng, con đường phát triển công nghiệp văn hóa của chúng ta cũng không tránh khỏi những thách thức.

“Qua thời gian triển khai Chiến lược, có thể thấy công nghiệp văn hóa của Việt Nam chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: Thiếu các văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ vai trò quản lý nhà nước, trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể có liên quan trong một số lĩnh vực, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng được tình hình thực tiễn, cơ chế phối hợp còn thiếu đồng bộ…” – Ông Lê Minh Tuấn nhấn mạnh.

Ông Lê Minh Tuấn cho rằng, để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, vai trò của Nhà nước là tạo hành lang pháp lý và ban hành cơ chế, chính sách để khuyến khích, hỗ trợ hoàn thiện hệ sinh thái, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa từ khâu sáng tạo - sản xuất - tạo dựng thương hiệu - quảng bá - tiêu dùng - xuất khẩu.

Phát triển công nghiệp văn hóa hiệu quả cần có cơ chế đặc thù, chính sách đột phá để khơi thông và huy động các nguồn lực nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sáng tạo và kinh doanh sản phẩm công nghiệp văn hóa. Các chính sách này cần tập trung vào việc tháo gỡ rào cản pháp lý (về vốn, thuế suất, hợp tác công - tư, đầu tư công, sử dụng tài sản công, nhập - xuất khẩu sản phẩm văn hóa…) để thu hút đầu tư, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp văn hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.

Đối với các ngành công nghiệp văn hóa, khu vực tư nhân là yếu tố chủ chốt, cốt lõi trực tiếp tạo ra sản phẩm và kinh doanh các sản phẩm công nghiệp văn hoá. Do vậy, hợp tác công - tư là giải pháp quan trọng và hết sức cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ, khuyến khích để kích cầu kinh doanh các sản phẩm công nghiệp văn hóa mang bản sắc Việt.

Để tăng cường hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa, cần hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy thí điểm và đánh giá hiệu quả mô hình đối tác công - tư, đồng thời tăng cường đầu tư công và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội khác. Phải cân bằng giữa việc huy động nguồn lực xã hội để phát triển với việc bảo vệ các giá trị cốt lõi của văn hoá và hướng tới phát triển công nghiệp văn hóa một cách bền vững. Xây dựng các quy định cụ thể, chi tiết, mang tính hướng dẫn thực thi tại các địa phương để đảm bảo hiệu quả khi thực hiện hình thức đối tác công - tư.

Thực tiễn đã chứng minh, công nghiệp văn hóa cần được xác định là một trong những thành tố quan trọng trong phát triển kinh tế, khẳng định bản sắc và nâng cao vị thế quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Việt Nam có nhiều yếu tố nền tảng để làm điều đó, từ di sản văn hóa, nguồn nhân lực sáng tạo, đến sự năng động của giới trẻ và doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ khi chính sách được “khơi thông”, thì công nghiệp văn hóa mới có cơ hội cất cánh: Khơi thông thị trường, khơi thông nguồn lực và khơi thông niềm tin. Đó là bước đi quyết định để công nghiệp văn hóa không chỉ sống nhờ cảm hứng, mà sống được - sống mạnh - và lan tỏa bền vững.