Bố mẹ mất sớm nên năm 16 tuổi, ông Nguyễn Văn Thành từ quê ra Hà Nội kiếm kế sinh nhai. Một thời gian sau, ông may mắn được một người phụ nữ độc thân nhận làm con nuôi. Thế nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn, khoảng 1 năm sau thì mẹ nuôi mắc bệnh hiểm nghèo rồi qua đời.

Trong một lần đi nhặt ve chai ở ga Hà Nội ông Thành nhìn thấy một phụ nữ cặm cụi ngồi nhặt từng hạt gạo người ta đánh rơi cho vào ống bơ. Thấy vậy ông tiến lại gần rồi hỏi han. Bà ấy kể gia đình không còn ai, bà ấy sống một mình, lang thang nay đây mai đó. Chả hiểu sao lúc đó tôi lại có cảm giác rất muốn che chở cho bà ấy. Thế là tôi bạo gan nói rằng: “Em theo tôi nhé. Chúng ta sẽ nương tựa vào nhau. Có rau ăn rau, có cháo ăn cháo”. Ấy thế mà bà ấy gật đầu ngay”. Ông Thành hài hước nhắc lại chuyện “nhặt vợ” của mình.

Ngồi cạnh ông Thành, bà Nguyễn Thị Thuỷ không giấu được vẻ bối rối khi nhắc lại chuyện “theo không” chồng mình. Bà nói như giải thích: “Lúc đó thì đòi hỏi gì được chứ. Mình vất vưởng, không nhà không người thân, giờ có người tỏ lòng yêu thì phải đồng ý ngay”.

Về ở chung với nhau được một thời gian trong cảnh đói khổ, bom đạn bắn phá miền Bắc dữ dội nên hai ông bà kéo nhau lên Lào Cai - Yên Bái dựng lều ở và sống bằng nghề hái măng rừng, đốn củi bán lấy tiền đong gạo. Khi hòa bình lập lại, ông bà bàn nhau về Hà Nội. Rồi cứ thế, hai vợ chồng lang thang đi khắp phố phường nhặt phế liệu, lấy ống bơ cho gạo vào nấu cơm ăn.

Chiếc thuyền nhỏ trên sông Hồng là nơi vợ chồng ông Thành sinh sống suốt nhiều năm qua. Hằng ngày, để có tiền trang trải cuộc sống, cứ chiều đến, ông Thành lại đạp xe đi khắp phố phường nhặt sắt vụn đến mờ sáng hôm sau mới về. Tiền bán phế liệu ông Thành dùng để đong gạo, mua mấy bìa đậu và chai nước mắm ăn dần.

Bà Thuỷ chia sẻ: “Mấy năm gần đây, sức khoẻ tôi yếu đi nhiều lại bị bệnh thấp khớp nên chẳng đi nhặt phế liệu cùng ông ấy được. Nhiều lúc nghĩ thương ông ấy lắm mà chả biết làm thế nào”.

Nếu như trước kia chỉ bị bệnh thấp khớp thì bà Thuỷ còn quanh quẩn ở nhà nấu cơm, trồng thêm luống rau. Nhưng 2 năm nay bà đành phải ngồi một chỗ vì đôi mắt mờ dần rồi mù hẳn.

Ông Thành bảo: “Giá có tiền chữa trị kịp thời thì mắt bà ấy chắc không bị mù như bây giờ đâu. Thế nhưng hoàn cảnh vợ chồng tôi đến ăn còn chưa đủ, nói gì thuốc thang tốn kém”. Để vợ bị mù là điều khiến ông Thành day dứt nhất.

Yêu thương nhau là thế nhưng ông bà lại không thể có với nhau một đứa con. Điều đó khiến bà Thuỷ luôn cảm thấy có lỗi với chồng. “Ngồi bên cạnh vợ, ông Thành cười hạnh phúc bảo: “Cuộc sống về già của chúng tôi chẳng có gì rồi cũng về với cát bụi. Thế nhưng chúng tôi luôn vì nhau, hạnh phúc bên nhau. Còn khoẻ mạnh ngày nào chúng tôi còn chăm lo cho nhau ngày đó”.

Cuộc sống của hai vợ chồng được ông Thành nhìn qua lăng kính rất thơ: “Dập dìu sông nước đầy vơi/ Ngồi ra cửa sổ thảnh thơi uống trà/ Đơn sơ nhưng cũng là nhà / Nương thân cuộc sống để mà mưu sinh/ Miễn sao có nghĩa có tình/ Trời cho khoẻ mạnh là vinh lắm rồi/ Giàu nghèo là lộc của trời/ Cho ai người được ước thời bằng không”... Hay những câu thơ như để tự răn mình: “Vợ mù, chồng điếc buồn thay/ Miễn sao hạnh phúc hằng ngày ấm êm/ Không vì nghèo khổ gây nên bất bình…”.

Theo Quang Anh/Tạp chí Ngày mới