Kết quả báo cáo giữa kỳ của chương trình thí điểm điều trị có kiểm soát thuốc Molnupiravir cho các trường hợp mắc Covid-19 thể nhẹ do Bộ Y tế triển khai tại 22 tỉnh, thành cho thấy thuốc có tính an toàn cao, dung nạp tốt, hiệu quả rõ rệt về giảm tải lượng vi rút, giảm lây lan, giảm chuyển nặng, rút ngắn thời gian điều trị với tỷ lệ F0 có kết quả xét nghiệm RT-PCR sau 5 ngày âm tính hoặc dương tính với tải lượng vi rút thấp từ 72,1 - 99,1%.

Tỷ lệ F0 có kết quả xét nghiệm RT-PCR sau 14 ngày âm tính hoặc dương tính với tải lượng vi rút thấp gần 100%; tỷ lệ chuyển nặng rất thấp, từ 0,02 - 0,06% và không có ca nào dẫn đến tử vong.

Các kết quả rất khả quan của chương trình đã đóng góp hiệu quả vào công tác phòng, chống dịch của TP.HCM và các địa phương có dịch.

Từ cuối tháng 8.2021, chương trình điều trị có kiểm soát thuốc kháng vi rút Molnupiravir cho BN Covid-19 nhẹ và không triệu chứng tại nhà được triển khai đầu tiên tại TP.HCM hiện đã mở rộng đến 34 tỉnh, thành.

Theo Bộ Y tế, hiện Bộ đã cấp khoảng 250.000 liều thuốc Molnupiravir cho các tỉnh, thành từ tháng 8 đến nay. Thuốc này được sử dụng trong chương trình điều trị có kiểm soát thuốc kháng vi rút Molnupiravir cho BN Covid-19 (F0) nhẹ và không triệu chứng tại nhà. Trước triển khai chương trình, Molnupiravir đã được thử nghiệm lâm sàng (TNLS) đánh giá về an toàn tại VN.

Thông tin từ Bộ Y tế cho hay nguồn thuốc Molnupiravir cho triển khai điều trị có kiểm soát các F0 tại nhà đã được Bộ Y tế cấp gần hết cho các địa phương, nhưng tiếp tục có lô mới về đang hoàn tất thủ tục thông quan. “Ngoài Molnupiravir, chúng ta cũng có thuốc kháng vi rút đã sử dụng từ đầu vụ dịch, điều trị cho các F0 nhẹ. Trong tình huống gián đoạn nguồn cung Molnupiravir, chúng ta có thuốc thay thế”, một lãnh đạo của Bộ Y tế cho hay.

Ngoài ra, các thuốc điều trị F0 nặng cũng đã được Bộ Y tế cấp phép nhập về liên tục từ tháng 8 vừa qua. Trong đó có các thuốc điều trị BN nặng như: Remdesivir (được cấp phép hơn 2,2 triệu lọ, đã nhập khẩu 2,178 triệu lọ); Favipiravir 2 triệu viên; kháng thể đơn dòng (109.000 hộp thuốc Tolicizumab; 16.500 hộp thuốc Casirivimab and Imdevimab).

Trước tâm lý của người dân về khan hiếm thuốc điều trị Covid-19 nên đã tự tìm kiếm mua thuốc dự trữ, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn cho hay: “Hiện thuốc kháng vi rút không được sử dụng để điều trị dự phòng Covid-19. Việc điều trị cũng cần phù hợp với diễn biến bệnh. Để đảm bảo an toàn, hiệu quả và đề phòng các tác dụng không mong muốn, việc sử dụng thuốc điều trị Covid-19 tại nhà cần có sự hướng dẫn, theo dõi sức khỏe của nhân viên y tế. Người dân không nên tìm mua thuốc trôi nổi, không rõ nguồn gốc vì không được kiểm soát chất lượng, không đảm bảo hiệu quả”.

Theo Bộ Y tế, hiện có 26 công ty nghiên cứu, sản xuất thuốc điều trị Covid-19 việc nghiên cứu.

Cục Quản lý dược, Vụ Pháp chế và các đơn vị liên quan đang hoàn thiện hệ thống pháp lý để tạo cơ chế pháp lý thuận lợi cho việc nhập khẩu, sản xuất thuốc, vaccine và cấp phép lưu hành. Đồng thời, lãnh đạo Bộ Y tế cũng làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam về việc nhượng quyền tự nguyện để sản xuất thuốc Molnupiravir tại Việt Nam; chủ động hướng dẫn, hỗ trợ, các đơn vị nghiên cứu, các nhà sản xuất trong nước nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ nghiên cứu TNLS, hồ sơ đăng ký lưu hành thuốc điều trị Covid-19.

Một thành viên hội đồng cấp số đăng ký thuốc cho hay, các vấn đề pháp lý theo hướng cắt giảm thủ tục đang được hoàn thiện, sớm trình Chính phủ phê duyệt. “Đã có các đơn vị đạt chuẩn, đủ năng lực sản xuất thuốc. Các đơn vị cũng đã tìm kiếm, đàm phán mua nguyên liệu và đang sản xuất thử nghiệm”, chuyên gia này cho biết.

Theo Bộ Y tế, để đảm bảo lâu dài, chủ động nguồn thuốc điều trị bệnh nhân Covid-19 nhẹ, điều trị sớm, giảm nguy cơ tăng nặng, bộ này đã cấp 78 đơn hàng nguyên liệu Molnupiravir cho 34 công ty, 55 đơn hàng nguyên liệu Favipiravir cho 26 công ty để phục vụ nhu cầu nghiên cứu sản xuất thuốc. Bộ Y tế cũng đang xây dựng các mức dự trù sử dụng thuốc, trong đó chấp nhận mua thuốc với số lượng đáp ứng nhu cầu cho kịch bản dịch có diễn tiến xấu, vì có khả năng dư thừa thuốc khi dịch được kiểm soát tốt.