Hiện trung bình mỗi năm Trung tâm tim mạch Bệnh viện E mổ tim nội soi khoảng 500 ca, trong đó có nhiều ca bệnh khó, phức tạp, không còn cảnh bệnh nhân phải chờ mổ quá lâu hoặc phải ra nước ngoài điều trị.
Một trong số những ca bệnh đặc biệt được TS.BS Nguyễn Công Hựu - Giám đốc BV E chia sẻ trong cuộc trò chuyện với phóng viên VOV2 là trường hợp của bệnh nhân ở tỉnh Nghệ an.
10 năm trước bệnh nhân này từng mổ mở để thay van tim và được chỉ định phải tái khám, dùng thuốc chống đông máu suốt đời. Tuy nhiên do không tuân thủ việc kiểm soát dùng thuốc chống đông theo quy định, khi xuất hiện triệu chứng khó thở bệnh nhân đến cấp cứu tại Bệnh viện E và được phát hiện cánh van tim bị kẹt làm cho máu không lưu thông được dẫn đến hình thành huyết khối trong buồng tim, buộc phải mổ lại.
Do bệnh nhân đã từng mổ mở nên nếu cưa lại xương ức, nguy cơ lưỡi cưa sẽ làm rách cơ tim. Còn mổ nội soi sẽ gặp khó khăn vì quả tim và các cấu trúc phía sau bị dính do mổ lần trước, hơn nữa cũng chưa từng có tiền lệ mổ nội soi trong cấp cứu. Tuy nhiên đứng trước sự an nguy về tính mạng của người bệnh, các bác sĩ đã quyết định phẫu thuật bằng hệ thống nội soi 3D. Ca phẫu thuật thành công và bệnh nhân khỏe mạnh ra viện chỉ sau 1 tuần điều trị.
TS.BS Nguyễn Công Hựu cho biết, đây chỉ là 1 trong số rất nhiều ca bệnh khó đã được các BS điều trị thành công bằng phẫu thuật nội soi 3D.

Với phương pháp mổ tim truyền thống, các bác sĩ sẽ phải rạch một đường mổ dài từ hõm ngực dọc xuống xương ức khoảng 15-20cm và mở toàn bộ lồng ngực. Phương pháp kinh điển này còn tồn tại nhược điểm là nguy cơ viêm xương ức sau mổ. Nếu không may người bệnh mắc biến chứng sau mổ này sẽ phải nằm viện rất lâu, việc chăm sóc rất phức tạp, có nguy cơ tử vong. Về mặt thẩm mỹ, đường mổ mở sẽ để lại sẹo dài, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Tuy nhiên, với mổ nội soi những hạn chế này được khắc phục.
"Mổ nội soi hạn chế mổ rộng, tránh để quả tim và phổi phơi ra ngoài môi trường, hạn chế được nhiễm trùng, hạn chế được việc động vào cơ tim gây viêm nhiễm, phù nề. Phẫu thuật nội soi cũng giúp tránh được việc phải mở phần xương ức, tránh được việc phải khâu xương bằng chỉ thép. Thời gian hồi phục, liền vết mổ nhanh, chỉ vài tuần, trong khi nếu mổ mở tác động vào xương thì có thể cần đến 2 tháng mới liền chắc được xương ức. Cùng với đó là lợi ích về mặt thẩm mỹ. Tất cả đường mổ sẽ được các bác sĩ cố gắng giấu ở dưới nếp lằn tự nhiên, sau mổ sẹo được che đi, giúp người bệnh tự tin hơn trong cuộc sống, nhất là phụ nữ..." - theo TS.BS Nguyễn Công Hựu.
Kỹ thuật này hiện được Bệnh viện E ứng dụng trong việc xử lý nhiều ca bệnh khó như phẫu thuật van 2 lá, tim bẩm sinh, thông liên nhĩ, khối u trong tim... Đặc biệt, do đây là một phẫu thuật khó, đòi hỏi phải có trang thiết bị hiện đại, dụng cụ đặc biệt với giá thành cao, phẫu thuật viên có trình độ tay nghề cao nên hiện nay không nhiều cơ sở có thể đưa vào triển khai thường quy như Trung tâm tim mạch BV E.
"Dụng cụ màn hình nội soi như cánh tay nối dài của bác sĩ để can thiệp vào quả tim, do vậy việc mổ này đòi hỏi máy móc phải tốt và quan trọng hơn nữa là về đào tạo. Nếu như đào tạo mổ tim đã lâu thì từ mổ tim truyền thống sang nội soi lại là 1 bước nữa. Lộ trình đào tạo cần cả 1 kíp chứ không phải 1 người. 1 kíp mổ lớn nên hiện nay ở nước ta y tế công lập mổ tim nhiều chứ y tế tư nhân mổ tim chỉ có số lượng hạn chế ở các thành phố lớn..." - theo TS.BS Nguyễn Công Hựu.
Chia sẻ về những bước tiến trong phẫu thuật tim mạch tại đơn vị, TS.BS Nguyễn Công Hựu cho biết, 15 năm năm trước ở khu vực miền Bắc rất ít cơ sở y tế có thể triển khai kỹ thuật mổ tim, vì thế bệnh nhân phải xếp hàng chờ mổ rất lâu. Có những người phải chờ 15-16 tháng mới được mổ, nhiều bệnh nhân phải ra nước ngoài điều trị. Khi đó cũng chưa có mổ tim nội soi ở trong nước.
Trước thực trạng đó, GS Lê Ngọc Thành - giám đốc Bệnh viện E khi đó đã thành lập ekip phẫu thuật sang Mỹ học về mổ nội soi tim. Sau đó, triển khai đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về mổ tim nội soi, đầu tư trang thiết bị, cải tiến kỹ thuật cho phù hợp với điều kiện của VN, chuyển từ phẫu thuật 2D sang phẫu thuật 3D và dần dần đưa vào triển khai thường quy, nhờ vậy số lượng bệnh nhân được tiếp cận với kỹ thuật này ngày càng nhiều và kỹ thuật mổ ngày càng phát triển, đưa Trung tâm tim mạch Bệnh viện E trở thành một trong những trung tâm mổ tim nội soi nhiều nhất cả nước.
Đặc biệt, theo TS.BS Nguyễn Công Hựu, hiện nay các bác sĩ tim mạch của VN nói chung và Bệnh viện E nói riêng đã có thể tự tin mở hội thảo, mời các bác sĩ trong khu vực cùng tham dự để chia sẻ kinh nghiệm - điều mà trước đây khi lần đầu tiên tham dự hội nghị tim mạch trong khu vực, BS Hựu chỉ dám mơ ước.
"Những năm 2005-2006, lần đầu tiên tôi được tham dự hội nghị tim mạch trong khu vực, giống như ở xã lên trung ương đi học, nhìn gì cũng thấy đẹp và không biết bao giờ mình mới làm được điều ấy. Nhưng hiện nay chúng ta có thể tự hào rằng mọi loại bệnh tim mà thế giới mổ được thì VN cũng mổ được và chúng ta cũng liên tục cập nhật kỹ thuật mới, đặc biệt là trong phẫu thuật tim ít xâm lấn, phẫu thuật tim nội soi, tim mạch can thiệp... Đây là những nỗ lực rất lớn của ngành Y tế và các bác sĩ tim mạch nói chung" - BS Nguyễn Công Hựu chia sẻ.