Trong không gian hội trường sáng đèn giữa thành phố Thanh Hóa những ngày trung tuần tháng 12, hình ảnh gần 60 học viên là các nghệ nhân, người có uy tín, cán bộ văn hóa và đồng bào dân tộc Dao, Khơ Mú khoác lên mình những bộ trang phục truyền thống rực rỡ đã tạo nên một dấu ấn đặc biệt. Không chỉ là lớp tập huấn chuyên môn, đây còn là cuộc hội ngộ của ký ức, bản sắc và niềm tự hào dân tộc, nơi những đường kim mũi chỉ kể lại câu chuyện văn hóa hàng trăm năm của cộng đồng.

Khi trang phục để nhận diện cội nguồn

Lớp tập huấn “Bảo tồn, truyền dạy, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một” do Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa tổ chức. Đây là hoạt động nằm trong kế hoạch hỗ trợ nghiên cứu, phục hồi, bảo tồn văn hóa truyền thống tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Phát biểu khai mạc lớp tập huấn, ông Trần Mạnh Hùng - Phó Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam nhấn mạnh: trang phục truyền thống không chỉ là sản phẩm vật chất, mà là “dấu hiệu nhận diện đầu tiên” để phân biệt các tộc người, là kết tinh của lịch sử, môi trường sống, tín ngưỡng và lao động sản xuất của mỗi cộng đồng.

“Chỉ cần nhìn trang phục, chúng ta có thể nhận ra ngay đồng bào thuộc dân tộc nào. Nhưng nếu không còn trang phục ấy, việc nhận diện sẽ trở nên rất khó khăn. Đó là nguy cơ lớn đối với bản sắc văn hóa”, ông Hùng chia sẻ.

Tại buổi tập huấn, bà Chử Thị Thu Hà, giảng viên Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho biết: “Lớp tập huấn tập trung giới thiệu những giá trị đặc sắc của trang phục truyền thống người Khơ Mú. Thông qua đó, chúng tôi mong muốn bà con nhận thức rõ hơn rằng trang phục của dân tộc mình rất đẹp, độc đáo và giàu ý nghĩa văn hóa. Tuy nhiên, trước khi tham gia lớp tập huấn, nhiều người dân tại Thanh Hóa đã không còn lưu giữ được trang phục nguyên gốc của dân tộc mình. So với một số địa phương khác mà bà từng tham gia tập huấn, trang phục Khơ Mú ở Thanh Hóa đã bị mai một ở mức khá rõ rệt".

Sau khi được nghe giới thiệu và phân tích về đặc trưng, giá trị của bộ trang phục truyền thống, bà con đã hiểu biết hơn rất nhiều. “Nhiều người chia sẻ rằng họ không còn giữ được bất kỳ bộ trang phục truyền thống nào. Nhưng sau buổi trao đổi, bà con bày tỏ mong muốn được đến các địa phương khác để học hỏi kinh nghiệm bảo tồn, phục dựng trang phục. Đồng thời, họ rất kỳ vọng Ban tổ chức có thể hỗ trợ kinh phí để phục dựng lại bộ trang phục nguyên gốc, bởi hiện nay trang phục truyền thống của người Khơ Mú tại địa phương đã bị mai một đáng kể” - bà Thu Hà nhấn mạnh.

Những “người giữ nghề” lặng lẽ giữa bản làng

Trong số các học viên có mặt tại lớp tập huấn, nhiều người đến từ các xã miền núi xa xôi của tỉnh Thanh Hóa… Có người phải dậy từ 3 - 4 giờ sáng, vượt quãng đường gần 80 km trong điều kiện mưa rét để kịp có mặt đúng giờ.

Anh Dương Môn, thôn Bình Sơ, xã Cẩm Thạch (trước đây là xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Thủy) cho biết, khu vực anh sinh sống hiện có đông đồng bào Dao sinh sống xen cư cùng người Mường, Thái, Kinh. Dù đời sống đã đổi thay, nhưng những dịp trọng đại như cưới hỏi, lễ cấp sắc, bà con vẫn giữ thói quen mặc trang phục truyền thống.

Chỉ tay vào chiếc áo đang mặc, anh Môn tự hào nói: “Tất cả hoa văn trên áo đều do phụ nữ trong nhà tự tay thêu. Mẹ tôi làm chiếc áo này cho tôi, phải mất hơn 10 ngày mới hoàn thiện. Mỗi họa tiết đều gắn với hình ảnh ruộng nương, cây lúa, chim muông - đó là cả cuộc sống của người Dao gửi vào trong áo”.

Theo anh Môn, một bộ trang phục Dao hoàn chỉnh có thể trị giá hơn 10 triệu đồng nếu tính đúng công sức, nhưng đa phần bà con không làm để bán mà để mặc, để giữ gìn. “Mặc bộ áo này vào, tôi thấy mình là người Dao thực sự, thấy tự hào về dân tộc mình”, anh chia sẻ.

Nếu như lớp trẻ hôm nay ít người còn thành thạo nghề may, thêu trang phục truyền thống, thì các nghệ nhân cao tuổi chính là “kho tư liệu sống” quý giá.

Bà Phùng Thị Ân, thôn Thạch An, xã Cẩm Thạch, là một trong số rất ít phụ nữ Dao còn có thể hoàn thành trọn vẹn một bộ trang phục. Bà Ân cho biết, từ nhỏ bà đã được mẹ truyền dạy cách dệt, thêu, cắt may từng chi tiết.

“Ngày xưa, con gái Dao mà không biết làm áo thì khó lấy chồng. Bây giờ thì khác rồi, nhiều người trẻ chỉ mua sẵn hoặc mặc quần áo phổ thông. Nghề vẫn còn, nhưng người làm được thì ít lắm”, bà Ân trăn trở.

Theo bà, mỗi hoa văn trên áo đều mang ý nghĩa cụ thể: hình ruộng, hình bừa, cây lúa, chim rừng, gạo nương… phản ánh sinh hoạt sản xuất và thế giới quan của người Dao. Để hoàn thiện một bộ trang phục, người thợ phải làm hoàn toàn thủ công, từng mũi chỉ phải thẳng, đều; chỉ cần lệch là phải tháo ra làm lại.

“Giờ tôi vẫn dạy con cháu, nhưng chúng bận đi làm công ty, đi xa, nên học được ít. Tôi chỉ mong Nhà nước, ngành văn hóa có thêm cách động viên để lớp trẻ thấy quý nghề, yêu bản sắc của mình”, bà Ân nói.

Bài toán giữ bản sắc trong dòng chảy hiện đại

Thực tế cho thấy, không chỉ dân tộc Dao, mà nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số khác, trong đó có dân tộc Khơ Mú tại Thanh Hóa, đang đứng trước nguy cơ mai một trang phục truyền thống do giao thoa văn hóa và thay đổi sinh kế. Việc tổ chức các lớp tập huấn vì vậy mang ý nghĩa rất lớn, nhất là trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Bảo tồn văn hóa không thể chỉ dừng lại ở khẩu hiệu hay trưng bày, mà cần được nuôi dưỡng bằng chính đời sống cộng đồng, bằng những người mặc, người làm và người truyền dạy.

Chia sẻ tại lớp tập huấn bảo tồn trang phục truyền thống dân tộc Khơ Mú, ông Mong Văn Dôm, nghệ nhân dân gian ở thôn Đoàn Kết, xã Mường Lát, bày tỏ trăn trở về thực trạng văn hóa của dân tộc mình.

Theo ông Dôm, hiện nay phần lớn đồng bào Khơ Mú sinh sống xen cư với người Thái nên dần mất đi trang phục truyền thống riêng. Nhiều thế hệ trẻ không còn phân biệt được đâu là trang phục Khơ Mú, đâu là trang phục Thái. Thậm chí trong trường học, con em dân tộc Khơ Mú thường mặc trang phục của dân tộc khác, dẫn đến nguy cơ “hòa tan” bản sắc.

“Bên ngoài thì giống người Thái, nhưng bên trong vẫn là con cháu người Khơ Mú. Nếu không giữ được trang phục thì rất thiệt thòi cho thế hệ sau,” ông Dôm xúc động chia sẻ.

Ông cũng cho biết, các tư liệu truyền miệng, trang phục truyền thống của người Khơ Mú đã bị mai một từ rất sớm, có thể từ những năm 1930. Do thiếu mẫu gốc và tài liệu chuẩn xác, việc phục dựng hiện nay gặp nhiều khó khăn. Một trong những đề xuất quan trọng được ông Dôm và các học viên đưa ra là mong muốn ngành văn hóa có mẫu trang phục chuẩn của người Khơ Mú để làm cơ sở truyền dạy cho thế hệ trẻ.

Theo ông, người Khơ Mú sinh sống ở nhiều địa phương như Thanh Hóa, Sơn La, Lào Cai hay bên Lào, mỗi vùng có sự khác biệt nhất định. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ để xác định trang phục đặc trưng của người Khơ Mú Thanh Hóa, tránh tình trạng vay mượn hoặc pha trộn.

“Có mẫu chuẩn thì con cháu mới làm theo được, mới giữ được nét riêng của người Khơ Mú Thanh Hóa”, ông Dôm nhấn mạnh.

Gắn bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch

Phát biểu tại buổi tập huấn, ông Trần Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), khẳng định việc bảo tồn trang phục truyền thống dân tộc Khơ Mú là nội dung quan trọng trong Dự án số 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Theo ông Hùng, qua khảo sát thực tế cho thấy, với số dân chỉ khoảng trên dưới 1.000 người tại Thanh Hóa, đồng bào Khơ Mú hiện hầu như không còn sử dụng trang phục truyền thống trong sinh hoạt hàng ngày và lễ hội.

Theo Ban tổ chức, lớp tập huấn được thiết kế với hai phần: trao đổi lý thuyết về bảo tồn văn hóa phi vật thể và thực hành truyền dạy nghề may, thêu trang phục truyền thống. Dù thời gian không đủ dài để học viên thực hành trọn vẹn quy trình, nhưng mục tiêu lớn nhất là nâng cao nhận thức, khơi dậy ý thức gìn giữ văn hóa ngay trong cộng đồng.

Điều đáng mừng là gần như 100% học viên đều mang theo và mặc trang phục truyền thống khi tham gia lớp học. Với những người lần đầu xuống thành phố, việc khoác lên mình bộ trang phục dân tộc giữa không gian hiện đại càng khiến họ thêm tự hào.

“Chỉ cần nhìn hình ảnh này thôi là thấy lớp tập huấn đã thành công”, ông Trần Mạnh Hùng xúc động chia sẻ. Theo ông, nếu cộng đồng còn mặc, còn sử dụng trang phục trong đời sống tinh thần thì bản sắc vẫn còn cơ hội được bảo tồn bền vững.

Theo Phó Cục trưởng Trần Mạnh Hùng, bảo tồn trang phục không thể dừng lại ở tập huấn hay nghiên cứu, mà cần gắn chặt với đời sống thực tế của đồng bào. Việc tổ chức lễ hội truyền thống, hoạt động dân ca, dân vũ, dân nhạc chính là môi trường để trang phục truyền thống “sống” trở lại.

Từ những lớp tập huấn đầu tiên, các nghệ nhân và người dân kỳ vọng sẽ từng bước khôi phục trang phục truyền thống, khẳng định bản sắc riêng trong bức tranh đa dạng của các dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là hành trình gìn giữ ký ức văn hóa, mà còn là nền tảng để phát triển du lịch bền vững, nâng cao đời sống cho đồng bào vùng cao.