Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Duy Thì sinh năm 1572 tại làng Láng, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới, nay thuộc xã Xuân Lãng, tỉnh Phú Thọ, trong một dòng họ danh giá. Tại khoa thi năm Mậu Tuất (1598) đời Vua Lê Thế Tông, Nguyễn Duy Thì đỗ Tiến sĩ khi ở tuổi 27.

Được triều đình Lê - Trịnh trọng dụng nên ngay sau khi thi đỗ đạt, Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì được bổ chức Hàn lâm Hiệu lý Viện giúp các việc từ hàn trong triều Lê trung hưng thời Triết vương Trịnh Tùng. Sau đó, năm 1606 ông được thăng làm Cấp sự trung và được cử đi sứ sang nhà Minh. Khi trở về ông được phong làm Thiêm ngự sử, tước Phương Tuyền bá.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quý Đôn, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Phú Thọ, khi làm quan trong triều Nguyễn Duy Thì đã bộc lộ những quan điểm độc đáo khiến “đi thì vua nhớ, ở thì chúa sợ”. “Ngay từ thời ấy Nguyễn Duy Thì đã cho rằng “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, nghĩa là dân là quý nhất, vua chỉ là người thường. Hôn quân- nghĩa là vua dở mà bề tôi cứ phải nghe theo thì đó không phải là trung thần mà là nịnh bợ. Trịnh Tùng yêu quý nhưng Nguyễn Duy Thì không lấy thế làm lộng hành lấn át. Ông vẫn giữa quan điểm chỉ giúp chúa Trịnh, còn phò vua Lê. Vì thế, khi Nguyễn Duy Thì đi đâu xa thường có câu “đi thì vua nhớ, ở thì chúa sợ”.

Là một trí thức có vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời Lê Trung Hưng, Nguyễn Duy Thì đã đem hết sức mình cống hiến cho sự ổn định tình hình chính trị đất nước ở buổi đầu thời Lê - Trịnh, trong thì giữ yên chính trị, ngoài thì trấn áp phản loạn, khôi phục mối bang giao hữu hảo với phía Bắc, giữ gìn tình cảm truyền thống người Việt với nhà Nguyễn ở phía Nam.

Đầu thế kỷ 17, chính quyền triều Lê - Trịnh tuy đã thiết lập khá ổn định, trong nước đã tương đối được yên bình, nhưng cuộc nội chiến với nhà Mạc suốt mấy chục năm khiến cho sản xuất nông nghiệp đình đốn, làng xóm tiêu điều chưa phục hồi, mất mùa liên tiếp nhiều năm. Lo lắng trước tình đó, tháng 8 năm Hoằng Định 13 (tức năm 1612), Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Thì cùng Giám sát ngự sử Phạm Trân (Tiến sĩ năm 1592 đời nhà Mạc) và một số đồng liêu khác nữa đã trình lên chúa Trịnh Tùng một bản khải văn bày tỏ mối quan tâm trước hiện tình triều chính.

Tờ khải viết: "Dân là gốc của nước, đạo trị nước chỉ là yên dân mà thôi. Lại nghĩ rằng trời với dân cùng một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý trời rồi. Cho nên người giỏi trị nước, yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy họ đói rét thì thương, thấy họ lao khổ thì xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khóa bừa bãi, để cho dân được thỏa sống mà không còn tiếng sầu hận oán than. Thế mới là biết đạo trị nước, biết cách sai dân. Nay Thánh thượng để ý tới dân, thi hành một chính sách cốt để nuôi dân, ban ra một mệnh lệnh, cũng nghiêm răn nhiễu dân. Lòng yêu dân đó thực là lượng cả của trời đất, cha mẹ vậy... Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận lòng người, trên hợp ý trời và chuyển tai họa thành điềm lành, lúa được mùa luôn, người người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp muôn năm của nước nhà từ nay cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy”.

Triết vương Trịnh Tùng khen và phê chuẩn các điều trong bài khải của Nguyễn Duy Thì. Khoảng cuối năm 1613, triều đình sai triều thần chia nhau đi các xứ xét hỏi nỗi đau khổ của dân gian. Người phiêu dạt thì tha tạp dịch 3 năm để về yên cư phục nghiệp.

Với tài năng và đức độ hiếm có, năm 1626, Nguyễn Duy Thì được thăng làm Thượng thư Bộ Công, rồi Tuyền quận công, gia thăng làm Thiếu phó. Năm 1642, ông được cử làm Thượng thư bộ Binh, rồi gia thăng làm Tham tụng, Thượng thư Bộ Lại, giữ việc 6 Bộ kiêm chức Tế tửu Quốc Tử Giám, coi học viện Hàn lâm. Sau đó, được thăng làm Thái phó, được vua ban mở phủ gọi là Bỉnh Quân.

Không chỉ tài bang giao, khi làm quan trong triều, ông là người thấu tình đạt lý. Nguyễn Duy Thì còn có công cứu 2 làng là dân làng Đanh và dân làng Thạch Đà khỏi họa “làm cỏ” của triều đình lúc bấy giờ. Câu chuyện này đến nay vẫn được lưu truyền tại 2 làng.

Trải qua nhiều trọng chức dưới triều Lê - Trịnh, uy danh của Thái tể Nguyễn Duy Thì lừng lẫy một giai đoạn nhiều biến động lịch sử đầu thời Lê Trung hưng. Tên tuổi và sự nghiệp của ông được lưu danh trong sách Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều văn bia, sắc phong dành cho ông cũng như trong lòng người dân quê ông.

Sau hơn 50 năm làm quan phụng sự 5 đời vua Lê, 3 đời chúa Trịnh, ngày 11 tháng 9 Canh Dần, Nguyễn Duy Thì viên mãn thọ chung tại phủ đệ Bỉnh Quân ở quê nhà, hưởng thọ 81 tuổi. Vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng truyền lục bộ binh dân tổ chức phục dịch tang lễ rất mực trọng thể và truy tặng Nguyễn Duy Thì là Thái tể. Nhân dân tiếc thương thờ phụng ông ngay tại phủ Bỉnh Quân và ngày nay trở thành đền thờ ông tại quê nhà.

Hiện nay, tại di tích này, ngôi đền thờ quan phủ Thượng Láng Nguyễn Duy Thì còn lưu giữ nhiều hiện vật, tư liệu quý như: Chiếc đòn võng gỗ mít Quan Thượng Láng vẫn dùng khi đi từ triều đình về quê và ngược lại, bản chúc thư gồm 188 trang chữ Hán do công thần Nguyễn Duy Trực sao lại năm 1780 với nội dung ghi các chức tước và ruộng đất Nguyễn Duy Thì được vua ban cấp, 4 đôi câu đối minh hoạ cụ thể về những đóng góp với đất nước và những ghi nhận của hậu thế đối với Thái Tể Nguyễn Duy Thì.

Đặc biệt, trong di tích còn lưu giữ 34 đạo sắc phong, trong đó có 7 đạo sắc phong được ban cho Nguyễn Duy Thì, đạo sớm nhất là năm 1626 sau khi cụ đi sứ nhà Minh về, đạo cuối cùng là năm 1651 sau khi cụ mất. Kế đó là 7 sắc phong vua ban cho con trai trưởng của cụ là chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu, 4 sắc phong cho cháu nội của cụ là Nguyễn Duy Kính, đều là những trọng thần của triều đình sau này, còn lại là các sắc phong cho ông bà, bố mẹ, vợ… của Nguyễn Duy Thì.

Ghi nhớ công ơn của quan Thượng Láng, hậu duệ của Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì đều kế thừa và phát huy bài học về đạo làm quan liêm chính. Trong đó, con trai ông, sứ thần Nguyễn Duy Hiểu bởi khí tiết thà chết chứ không chịu nhục quốc thể. Dòng họ Nguyễn Duy làng Láng xưa nay được tiếp nối với nhiều thế hệ đỗ đạt, đóng góp cho đất nước. Tên tuổi của Nguyễn Duy Thì ngày nay còn được đặt mỹ danh cho một trường Trung học ở tỉnh Phú Thọ quê hương ông và tên đường phố ở nhiều thành phố lớn trên cả nước.