Ngang nhiên hoạt động không phép, không nộp thuế
Mới đây, theo thông tin từ Cục Phát thanh - Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ Thông tin - Truyền thông), công ty Netflix đã gỡ bỏ bộ phim truyền hình "Pine Gap" dài 6 tập, do bộ phim này có những hình ảnh vi phạm chủ quyền biển, đảo nước ta. Cụ thể là hình ảnh bản đồ có đường lưỡi bò phi pháp trên biển Đông xuất hiện tại phút thứ 12 của tập 2 và phút thứ 52 của tập 3 bộ phim.
Đây không phải lần đầu tiên nền tảng phim trực tuyến lớn nhất thế giới này gặp phải vấn đề về nội dung phim khi cung cấp dịch vụ tại nước ta. Trước đó, các bộ phim "Gửi thời thanh xuân ấm áp của chúng ta” và "Bà Ngoại trưởng” cũng có hình ảnh bản đồ hình lưỡi bò phi pháp, sau đó được yêu cầu gỡ bỏ.
“Ông lớn” ngành dịch vụ phim trực tuyến thế giới – Netflix bắt đầu vào Việt Nam từ năm 2016. Theo báo cáo của Bộ Thông tin – Truyền thông, đến nay Netflix đã có hơn 300.000 thuê bao đăng ký sử dụng với ba mức phí được lựa chọn: 180.000 – 220.000 và 260.000. Trong đó, mức phí 260.000 đồng/tháng sẽ có chất lượng hình ảnh 4K và có thể sử dụng cùng lúc 4 thiết bị, tức là chia ra 4 người sử dụng, mỗi người chỉ mất 65.000 đồng/tháng để truy cập vào kho phim không giới hạn.
Trong 5 năm qua, Netflix từng bước xâm nhập thị trường Việt, thay đổi thói quen của người dùng, đánh vào đối tượng khách hàng trẻ, trở thành đối thủ cạnh tranh lớn với CGV, Galaxy, BHD và các nền tảng truyền hình trả tiền khác. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, khi hầu hết các rạp phim phải đóng cửa thì nền tảng trực tuyến này lại càng ăn nên làm ra. Trung bình, mỗi năm Netflix thu khoảng 100 USD/thuê bao; như vậy doanh thu mỗi năm lên đến 30 triệu USD, tương đương 700 tỷ đồng. Thế nhưng, 5 năm qua Chính phủ Việt Nam chưa hề thu được 1 đồng thuế nào từ Netflix.
Làm sao quản lý phim trực tuyến?
Câu chuyện làm thế nào quản lý các nền tảng phim trực tuyến đang là một vấn đề làm đau đầu các cơ quan quản lý Việt Nam. Theo bà Hoàng Thị Anh Thư, Phó trưởng phòng Thanh tra – Pháp chế, Cục Phát thanh – Truyền hình và Thông tin Điện tử, Bộ Thông tin – Truyền thông, hiện nay số lượng phim và các video trên mạng là rất lớn, lên đến hàng trăm nghìn với tốc độ cập nhật theo giây. Luật Điện ảnh 2006 của ta không “theo kịp” sự bùng nổ của phim nói riêng và tất cả những thứ khác nói chung trên không gian mạng. Mặt khác, việc quản lý loại hình phim này, có những lĩnh vực chồng lấn chức năng, nhiệm vụ giữa 2 bộ Văn hóa - Thể thao &Du lịch và Thông tin – Truyền thông nên rất khó phân định rạch ròi.
“Việc quản lý phim trên Internet tôi nghĩ đây là một vấn đề nan giải hiện nay. Giữa 2 Bộ đang cùng quản lí phim trên Internet, vì nền tảng là không gian mạng nên rất rộng. Phim cung cấp qua các trang xuyên biên giới như thế, theo các cam kết quốc tế chúng ta buộc phải cho các trang có tên miền nước ngoài phát sóng ở Việt Nam, nên việc quản lí các trang này đang đặt ra rất nhiều vấn đề”, bà Hoàng Thị Anh Thư nói.
Còn theo NSƯT Lê Mạnh, Phó Giám đốc Trung tâm sản xuất phim truyền hình – Đài THVN, hiện có tới 70% lưu lượng truy cập internet mỗi ngày chỉ để xem video. Nhu cầu sử dụng các ứng dụng giải trí như Netflix, Youtube… đang chiếm phần lớn lưu lượng truy cập internet trong các hộ gia đình. Nhiều người tìm đến các dịch vụ giải trí trực tuyến mà sự tăng trưởng của lĩnh vực này mang tính xu thế.
“Ngày càng có nhiều người tìm đến các dịch vụ giải trí trực tuyến làm cho nó tăng trưởng dần", NSUT Lê Mạnh phân tích. "Nền tảng xem phim trực tuyến ghi nhận những thay đổi rõ ràng. Theo một số thông kê các năm 2019-2020, nền tảng chiếu phim trực tuyến bùng nổ và lần đầu tiên đạt doanh thu lớn hơn doanh thu phòng chiếu”.
Nhu cầu xã hội với các loại hình phim trực tuyến tăng cao như thế, nhưng thực tế việc quản lí loại hình này đang hoàn toàn bị thả nổi ở nước ta. Các luật hiện hành như Luật Điện ảnh, Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng... hầu như rất ít các điều khoản qui định rõ ràng, cụ thể để điều chỉnh loại hình dịch vụ này. Trên thực tế, các luật của chúng ta mới chỉ dừng ở việc điều chỉnh, rà soát phim phát hành trên hệ thống rạp chiếu và trên sóng truyền hình, còn trên hệ thống các nền tảng số, nhất là các nền tảng xuyên biên giới như: Netflix, Iflix, WeTV… gần như chưa đề cập đến.
Bà Hoàng Thị Anh Thư cho biết: “Tính đến thời điểm hiện tại Bộ TT-TT chưa cấp phép cho doanh nghiệp nước ngoài nào cung cấp dịch vụ phát thanh – truyền hình xuyên biên giới tại Việt Nam. Ví dụ hiện tại chúng ta đang rất bức xúc chuyện Netflix hay WeTV, những nền tảng đó cung cấp những nội dung phim mà chúng ta chưa thể kiểm định hay kiểm soát hết. Qua rà soát thì chúng tôi thấy là, các nội dung phát thanh – truyền hình trả tiền trên mạng internet xuyên biên giới chủ yếu là các bộ phim không được biên tập, cấp phép phổ biến theo qui định của pháp luật Việt Nam, do đó có rất nhiều nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam”.
Để giải quyết các khúc mắc này, dự thảo Luật Ðiện ảnh (sửa đổi) đang được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch chủ biên, dự kiến sẽ sớm trình Quốc hội trong năm nay đã bổ sung quy định về việc phổ biến phim trên không gian mạng. Theo đó, Điều 19 có quy định “Phim phổ biến trên không gian mạng tại Việt Nam phải được cấp giấy phép phổ biến và phân loại của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc được biên tập bởi cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh – truyền hình; Doanh nghiệp nước ngoài hoạt động phổ biến phim trên không gian mạng tại Việt Nam phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam”...
Theo TS Ngô Phương Lan, Nguyên Cục trưởng Cục Điện ảnh, Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến phát triển Điện ảnh Việt Nam, việc cung cấp nội dung trên mạng (hiện thường được nói đến như dịch vụ OTT), theo Điều 19 dự thảo rất chặt chẽ, nhưng có thể không khả thi, vì nếu quản lí theo phương thức như với phim truyền thống thì nhà cung cấp dịch vụ OTT sẽ đưa vào kho nội dung của mình một lượng phim nhiều gấp hàng nghìn lần so với lượng phim được chiếu ở rạp, dẫn đến khó có Hội đồng nào duyệt xuể.
Tuy nhiên, theo TS Ngô Phương Lan, nếu không duyệt các phim phổ biến trên không gian mạng sẽ dẫn đến nhiều hậu quả: “Nếu không duyệt sẽ rất bất bình đẳng. Bởi vì nếu trên mạng đã phổ biến rộng rãi và len lỏi khắp nơi thì lại không được thẩm định và cấp phép. Còn nếu ra rạp, chỉ hạn chế từng này người (cùng lắm vài triệu người) thì lại cấp phép rất chặt chẽ, phải chỉnh sửa cắt xén, do đó tạo ra sự bất bình đẳng”.
TS Ngô Phương Lan cũng cho rằng, việc yêu cầu các nền tảng cung cấp phim trực tuyến phải có văn phòng đại diện tại Việt Nam là điều bất khả thi. Thay vào đó, hãy tính đến các phương thức làm sao để những công ty như Netflix có thể hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho chính phủ Việt Nam, cũng như ràng buộc chặt chẽ các điều khoản về cung cấp nội dung trên mạng, có thể kèm theo yêu cầu xử phạt cụ thể nếu để xảy ra sai phạm.
“Gần đây tôi theo dõi trên báo chí thì Netflix tuyên bố là sẵn sàng nộp thuế tại Việt Nam, họ không phải là những người trốn thuế. Thế thì bây giờ việc của chúng ta là Bộ TT-TT phải tính thế nào để có cơ chế cho các nhà cung cấp dịch vụ đấy. Nếu mơ hồ việc này thì luật sẽ lại không thành công, nếu chúng ta không giải quyết được chính xác và hợp qui luật việc quản lý, phát hành phim trên mạng này”.
Trong xu thế chuyển đổi số quốc gia, việc quản lý các nền tảng nội dung số là việc cực kỳ cần thiết, cấp bách. Nếu không sớm có các bộ luật và chế tài hợp lý để quản lý những vấn đề này thì chúng ta cứ mãi chạy theo những sai phạm của doanh nghiệp, để xảy ra sai thì mới phạt và yêu cầu sửa chữa. Làm sao để có những bộ luật và các văn bản dưới luật không chỉ bám sát thực tiễn mà phải có tính dự đoán tình hình là điều cần thiết lúc này.
Mời nghe âm thanh tại đây: