Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và áp lực an toàn thực phẩm đang trở thành những thách thức lớn đối với ngành nông nghiệp, việc tìm kiếm các giải pháp canh tác bền vững, thân thiện với môi trường đang là xu hướng tất yếu.
Một trong những hướng đi được nhiều nông dân Việt Nam lựa chọn và áp dụng hiệu quả là sử dụng chế phẩm sinh học và than sinh học, những sản phẩm vừa góp phần cải thiện năng suất, chất lượng nông sản, vừa bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính.
Tại Bắc Ninh, ông Trần Văn Đức đã gắn bó với nghề trồng bưởi nhiều năm nay. Trên diện tích vườn, ông trồng đủ các loại bưởi đỏ, bưởi diễn, bưởi da xanh… nhưng điều đặc biệt là ông không dùng bất kỳ loại phân bón hóa học hay thuốc bảo vệ thực vật nào. Toàn bộ nguồn dinh dưỡng cho cây đều đến từ chế phẩm sinh học do ông tự ủ và pha chế.
Ông Đức cho biết, nguyên liệu để làm chế phẩm rất đơn giản: chỉ cần tận dụng những loại quả chín rụng như sung, chuối, đu đủ… kết hợp với men vi sinh. Sau một thời gian ủ, hỗn hợp này trở thành dung dịch giàu dinh dưỡng, mùi thơm tự nhiên, dùng để tưới cho cây ăn quả, rau màu.
“Tôi tự làm được khoảng 4 can men vi sinh, vừa đủ tưới cho toàn bộ vườn. Không chỉ cây phát triển tốt, ít sâu bệnh, mà trái cũng thơm ngon hơn. Điều quan trọng là tôi hoàn toàn yên tâm vì sản phẩm sạch, không ảnh hưởng tới sức khỏe gia đình và người tiêu dùng”, ông Đức chia sẻ.

Cũng lựa chọn canh tác sinh học, bà Lê Thị Minh ở Đông Anh, Hà Nội áp dụng chế phẩm sinh học trên diện tích 2 sào trồng rau và cây ăn quả. Bà phun chế phẩm định kỳ 5 ngày/lần theo hướng dẫn kỹ thuật, đảm bảo không độc hại với con người và vật nuôi.
Bà Minh cho biết, hiệu quả không chỉ ở năng suất mà còn ở sự an tâm. “Rau quả sạch dễ tiêu thụ hơn, được khách hàng tin tưởng. Bản thân gia đình cũng có nguồn thực phẩm an toàn”, bà Minh nói.
Việc sử dụng chế phẩm sinh học giúp cải tạo đất, duy trì độ tơi xốp, tăng khả năng giữ nước, hạn chế sâu bệnh hại mà không để lại tồn dư hóa chất, điều mà phương pháp canh tác truyền thống khó đạt được.
Tại Phú Thọ, gia đình bà Lê Thị Ngọc đã sáng tạo kết hợp than sinh học với chế phẩm sinh học để trồng tre và ngô. Than sinh học được tạo ra bằng cách đốt phụ phẩm nông nghiệp như thân ngô, cành cây, củi vụn… ở điều kiện yếm khí, sau đó làm nguội và nghiền nhỏ.
Bà Ngọc cho hay: “Cách làm này vừa tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có, vừa giảm chi phí đầu vào so với việc mua phân bón hóa học. Khi kết hợp với chế phẩm sinh học, đất trồng tơi xốp, cây sinh trưởng khỏe, năng suất tăng, lại góp phần chống biến đổi khí hậu”.

Theo Tiến sĩ Đào Văn Thông, Trưởng bộ môn Môi trường nông thôn, Viện Môi trường nông nghiệp, than sinh học không phải là phân bón mà là chất hỗ trợ cải tạo đất. Khi sử dụng đúng cách, than sinh học giúp giữ lại carbon trong đất, giảm phát thải khí nhà kính, điều mà việc đốt rơm rạ trực tiếp không thể làm được.
“Than sinh học rất tốt, nhưng phải kết hợp với dinh dưỡng và phân bón hợp lý để nâng cao hiệu quả. Nếu chỉ coi than sinh học là nguồn dinh dưỡng duy nhất thì sẽ ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cây trồng”, Tiến sĩ Thông nhấn mạnh.
Ông Thông cũng lưu ý, để phát huy tối đa giá trị, cần quản lý tốt quy trình sản xuất và sử dụng than sinh học, kết hợp hài hòa với các phương pháp canh tác khác trong mô hình nông nghiệp hữu cơ.
Với ưu điểm dễ thực hiện, chi phí thấp và mang lại hiệu quả lâu dài, chế phẩm sinh học và than sinh học đang mở ra hướng đi mới cho nông nghiệp Việt Nam, một nền nông nghiệp vừa đảm bảo sinh kế cho người dân, vừa bảo vệ môi trường sống cho các thế hệ mai sau.