Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hai tiếng thiêng liêng “công dân” đã được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia. Hiến pháp quy định tất cả công dân Việt Nam ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa và đều bình đẳng trước pháp luật, đồng thời hiến định về nghĩa vụ gắn liền với quyền của công dân.

"Bản Hiến pháp năm 1946 chia làm 7 chương, trong đó phần Lời nói đầu là về hoàn cảnh, bối cảnh ra đời, là khi chúng ta giành được chính quyền, lật đổ chế độ thực dân phong kiến và giành độc lập. Khi đó ở Việt Nam 2 từ “Công dân” là vô cùng thiêng liêng và lần đầu tiên được ghi trong Hiến pháp. Quyền của phụ nữ bình đẳng với đàn ông, không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, gái trai mọi người đều bình đẳng với nhau, xây dựng một xã hội dân chủ. Thì điều đó vô cùng quan trọng và được ghi nhận ngay trong Lời nói đầu của Hiến pháp" - TS, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội chia sẻ.

Sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3/9/1945 tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định việc xây dựng một bản Hiến pháp dân chủ là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Người nói, trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ, chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Vì thế, Hiến pháp năm 1946 ra đời chứa đựng các giá trị tiến bộ, mẫu mực và giá trị cốt lõi xuyên suốt của Hiến pháp năm 1946 chính là giá trị dân chủ.

Trong lịch sử phát triển của đất nước ta đã có 5 bản Hiến pháp được ra đời. Thế nhưng, nếu nói bản Hiến pháp nào để lại giá trị lịch sử sâu sắc nhất thì chắc chắn đó là bản Hiến pháp đầu tiên ra đời vào năm 1946. Bản Hiến pháp này khẳng định một điều rất quan trọng, đó là nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt, quyền con người cũng được đề cao trong Hiến pháp này.

PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng cho biết, Hiến pháp 1946 đã nêu rất rõ: Tất cả mọi quyền bính đều thuộc về nhân dân, ấy là nguyên tắc bất di bất dịch. Thực thi quyền tự do dân chủ rất rộng rãi và căn bản, thí dụ như tất cả mọi người đều được tham gia bầu cử nếu từ 18 tuổi trở lên và tham gia ứng cử từ 21 tuổi.

Theo TS Trương Thị Bích Hạnh, Khoa Lịch sử, trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, bối cảnh lịch sử nước ta lúc bấy giờ rất rối ren, thù trong giặc ngoài đều nhăm nhe xâu xé nhằm tiêu diệt chính quyền non trẻ. Do đó, việc xây dựng được một bản Hiến pháp ngắn gọn với 7 chương, 70 điều nhưng hội tụ đủ những tinh thần vì dân vào thời điểm đó là rất khó khăn, nhưng cuối cùng chúng ta đã làm được.

"Việc phải ngay lập tức cho ra đời một bản hiến pháp mới là một yêu cầu rất cấp thiết cho nên trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngay sau ngày 2/9 thì ngày 3/9 thì Chính phủ đã họp và đưa ra 6 nhu cầu cấp bách, trong đó có việc xây dựng Hiến pháp. Trong vòng tháng 10 thì bản dự thảo Hiến pháp đã được trình Chính phủ. Tháng 11 được đăng công khai trên báo Cứu quốc để lấy ý kiến rộng rãi của quần chúng nhân dân và trong kỳ họp Quốc hội lần thứ 2 thì được thông qua. Có thể nói rằng đây là một bản Hiến pháp được xây dựng trong thời gian rất ngắn nhưng có giá trị về nội dung rất là sâu sắc. Ngắn gọn, nhưng đảm bảo tất cả những tinh thần cốt lõi là tinh thần dân chủ, là quyền lực thuộc về nhân dân".

Bản Hiến pháp được xác định mấu chốt chính là nguyên tắc dân chủ bằng việc đặt chương về quyền công dân là chương số 2 ngay sau chương về chính thể. Hiến pháp 1946 quy định các quyền về công dân như: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và nước ngoài và quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm...

Sự ra đời của Hiến pháp năm 1946 là khẳng định mạnh mẽ về mặt pháp lý chủ quyền quốc gia của nhân dân Việt Nam, sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh nên bản Hiến pháp năm 1946 không được chính thức công bố, nhưng những tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 vẫn còn nguyên giá trị và được áp dụng xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp sau này. Đó là tinh thần Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Tinh thần ấy chính là giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.