Sáng nay (21/11), Quốc hội thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.

Đa số các đại biểu khẳng định cần thiết sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động chuyển giao công nghệ, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Tuy nhiên, theo các đại biểu dự thảo Luật vẫn còn một số điểm cần làm rõ, quy định chi tiết hơn.

Khái niệm Công nghệ xanh cần quy định rõ hơn

Đại diện cho cử tri của tỉnh Lâm Đồng, đại biểu Dương Khắc Mai cho rằng khái niệm “công nghệ mới” như quy định tại khoản 4 Điều 2, còn định tính, thiếu căn cứ đánh giá cụ thể. Ông đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các tiêu chí cho việc nhận diện như: mức độ khác biệt về nguyên lý, quy trình hoặc chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật so với công nghệ hiện đang được sử dụng phổ biến; mức độ phổ biến trên phạm vi thế giới và trong nước.

“Tôi đề nghị giao Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí, phương pháp phân loại công nghệ mới theo từng lĩnh vực. Điều này giúp cơ quan nhà nước và doanh nghiệp có căn cứ thống nhất khi xác định đối tượng được ưu tiên, hỗ trợ”, đại biểu Dương Khắc Mai phân tích.

Đại biểu Dương Khắc Mai thống nhất về nội dung của khái niệm “công nghệ xanh” như quy định tại khoản 5a Điều 2, của dự thảo với cụm từ “sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, thân thiện với môi trường, góp phần phát triển bền vững”. Tuy nhiên, theo ông, nếu khái niệm chỉ dừng ở việc mô tả khi áp dụng để xác định đối tượng được ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai, hay khi thẩm định dự án thì đầu tư sẽ rất khó khăn, mỗi địa phương có thể hiểu khác nhau. Để loại trừ khả năng phát sinh vấn đề này, ông kiến nghị: “Luật chỉ xác lập nguyên tắc chung về công nghệ xanh gắn với mục tiêu tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường”.

Theo ông, nội dung này nên quy định theo hướng nghị giao Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành bộ tiêu chí, chỉ số và ngưỡng kỹ thuật cho từng ngành, từng loại hình sản xuất làm cơ sở pháp lý cụ thể. Ngoài ra, để bảo đảm thống nhất, ban soạn thảo nên sử dụng một thuật ngữ “công nghệ xanh” trong toàn bộ luật, không dùng song song “công nghệ xanh” và “công nghệ sạch” với phạm vi điều chỉnh trùng lặp.

Khái niệm “công nghệ xanh” như quy định trong dự thảo cũng khiến đại biểu Nguyễn Văn Huy, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên băn khoăn.

Theo ông, về khái niệm công nghệ xanh, cần bổ sung, mở rộng phạm vi công nghệ điều chỉnh phù hợp với xu thế thế giới và yêu cầu thực tiễn; mở rộng đối tượng công nghệ được khuyến khích chuyển giao, tạo thể chế, chính sách, tạo động lực tài chính, thể chế pháp lý cho chuyển giao công nghệ.

Đại biểu Nguyễn Văn Huy đánh giá, dự thảo đã nêu được mục tiêu cốt lõi của công nghệ xanh là sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, thân thiện với môi trường và gắn với mục tiêu cuối cùng là phát triển bền vững. Tuy nhiên, cách giải thích trong dự thảo luật về công nghệ xanh còn mang tính mô tả về mục tiêu, chưa xác định rõ phạm vi công nghệ, chưa phân biệt giữa công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý, công nghệ hỗ trợ hay giải pháp quản lý. Điều này có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau và gây khó khăn khi áp dụng chính sách ưu đãi.

“Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước đều gắn công nghệ xanh với các chuẩn mực kỹ thuật và đánh giá theo vòng đời sản phẩm. Do đó, tôi đề nghị không bỏ khái niệm này mà đề nghị quy định theo hướng: Công nghệ xanh là công nghệ được thiết kế, phát triển và ứng dụng nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu phát thải và chất thải trong toàn bộ vòng đời sản phẩm hoặc là quy trình sản xuất, thân thiện với môi trường và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững”, đại biểu Nguyễn Văn Huy đề xuất.

Việc chuyển giao công nghệ chỉ nên quy định mang tính nguyên tắc

Các chính sách ưu tiên, khuyến khích chuyển giao công nghệ được quy định tại khoản 3 và khoản 6, Điều 1 của dự thảo. Sau khi nghiên cứu, đại biểu Dương Khắc Mai, Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cho rằng, nội dung này đã thể hiện sự ưu tiên chuyển giao công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ xanh và các dự án quan trọng của quốc gia. Tuy nhiên, theo ông, quy định về danh mục các loại công nghệ như trong dự thảo mang tính liệt kê. Điều này có thể khiến Luật khi ban hành không theo kịp sự phát triển của công nghệ.

“Danh mục các loại công nghệ tại Điều 9 được liệt kê rất dài, chi tiết. Trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh, nếu quy định quá chi tiết trong luật, khả năng lạc hậu là rất lớn, từ đó làm cho Luật không có tính ổn định lâu dài”, đại biểu Dương Khắc Mai lo ngại.

Ông Mai kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, quy định về việc chuyển giao công nghệ theo nhóm tiêu chí mang tính nguyên tắc, như: công nghệ gây rủi ro lớn cho môi trường, sức khỏe con người thì thuộc diện hạn chế hoặc cấm; công nghệ tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh thuộc diện khuyến khích. Ông cũng đề nghị giao Chính phủ ban hành, cập nhật định kỳ danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao, hạn chế chuyển giao, cấm chuyển giao, đồng thời thiết kế danh mục này đồng bộ với danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư, ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh trong Luật Đầu tư để tránh trùng lặp, mâu thuẫn và đảm bảo Luật khi ban hành sẽ ổn định lâu dài.

Y tế là lĩnh vực sở hữu nhiều công nghệ quan trọng, hiện đại. Theo đó là việc chuyển giao về công nghệ. Soi chiếu thực tế vào quy định trong dự thảo Luật Chuyển giao công nghệ, đại biểu Nguyễn Tri Thức, Đoàn ĐBQH Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Khoản 2 Điều 9 có các chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, quy định như trong dự thảo là chưa rõ về nội dung khuyến khích chuyển giao công nghệ đặc thù trong lĩnh vực y tế. Ông kiến nghị Ban soạn thảo xem xét và có sự điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu phát triển ngành của y tế trong tương lai.