Sáng nay (26/11), Quốc hội biểu quyết thông qua 4 luật gồm: Luật Dẫn độ, Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, Luật Tương trợ tư pháp về dân sự và Luật Tương trợ tư pháp về hình sự. Bốn luật này đều có hiệu lực thi hành từ 1/7/2026.

Luật Dẫn độ

Với 426/430 đại biểu có mặt tán thành, chiếm 89,97% tổng số đại biểu, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Dẫn độ. Luật gồm 4 chương, 45 điều, quy định nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện dẫn độ giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước Việt Nam trong dẫn độ.

Một trong những điểm mới là quy định về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ. Theo đó, luật yêu cầu giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có lý do và mục đích; thông tin về tội danh và khung hình phạt; cam kết bồi thường thiệt hại trong trường hợp có oan, sai đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ.

Bộ Công an là cơ quan sẽ kiểm tra tính hợp lệ của văn bản yêu cầu giữ người theo quy định. Nếu văn bản yêu cầu hợp lệ thì Bộ Công an sẽ chuyển cho cơ quan Công an có thẩm quyền quyết định giữ người và đưa vào cơ sở lưu trú.

Thời hạn giữ người trong trường hợp khẩn cấp là 45 ngày kể từ ngày đưa vào cơ sở lưu trú. Bộ trưởng Công an sẽ quy định chi tiết về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ.

Về dẫn độ có điều kiện, luật mới quy định trường hợp nước ngoài yêu cầu Việt Nam phải đáp ứng điều kiện nhất định để đồng ý dẫn độ, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể chấp nhận một phần hoặc toàn bộ điều kiện này trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc dẫn độ được quy định tại luật này.

Trường hợp cần yêu cầu nước ngoài đáp ứng điều kiện nhất định để Việt Nam đồng ý dẫn độ, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài chấp nhận và cam kết thực hiện điều kiện này.

Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù

Với 429/430 đại biểu có mặt tán thành, chiếm 90,51% tổng số đại biểu, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Luật gồm 4 chương, 48 điều.

Một trong những điểm mới nhận được sự quan tâm của dư luận là quy định về việc chuyển đổi hình phạt tù.

Luật quy định trường hợp hình phạt tù trong bản án, quyết định mà tòa án của nước chuyển giao đã tuyên với người đang chấp hành án phạt tù không phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự và các quy định khác của pháp luật Việt Nam thì phải chuyển đổi cho phù hợp.

Việc chuyển đổi hình phạt tù căn cứ vào các tình tiết của vụ án được nêu trong bản án, quyết định đã được tòa án của nước chuyển giao tuyên.

Luật quy định rõ hình phạt tù chuyển đổi không được nghiêm khắc hơn hình phạt tù mà tòa án của nước chuyển giao đã tuyên về tính chất và thời hạn.

Thời gian đã chấp hành án phạt tù ở nước chuyển giao được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam.

Luật còn nêu rõ người đang chấp hành án phạt tù được tiếp nhận về Việt Nam không bị kết án lần thứ hai về tội phạm đã được tuyên trong bản án, quyết định của tòa án nước chuyển giao.

Đây là một trong những nội dung nhận được nhiều ý kiến của các đại biểu trước đó, trước khi thông qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình: việc chuyển đổi hình phạt tù là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của người đang chấp hành án phạt tù, trong khi chính sách hình sự của Việt Nam với các nước có nhiều điểm khác biệt.

Để bảo đảm quy định của luật khả thi, ổn định, thuận lợi khi áp dụng, luật giao, Bộ trưởng Bộ Công an đã chủ trì, phối hợp với Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng VKSND Tối cao quy định chi tiết về nội dung này.

Luật Tương trợ tư pháp về dân sự

Có 429/430 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,51% tổng số đại biểu, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. Luật gồm 4 chương, 38 điều quy định nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp về dân sự.

Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam với nước ngoài.

Luật quy định, Bộ Tư pháp là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương trợ tư pháp về dân sự.

Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương trợ tư pháp về dân sự có trách nhiệm làm đầu mối trao đổi thông tin, tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Về nguyên tắc tương trợ tư pháp về dân sự, Luật quy định: Tương trợ tư pháp về dân sự được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trường hợp Việt Nam và nước ngoài không cùng là thành viên của điều ước quốc tế tương trợ tư pháp về dân sự thì tương trợ tư pháp về dân sự đương nhiên được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại, trừ trường hợp có căn cứ cho thấy nước ngoài không hợp tác thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của Việt Nam thì có thể từ chối thực hiện.

Luật Tương trợ Tư pháp về hình sự

Luật Tương trợ Tư pháp về hình sự được Quốc hội biểu quyết thông qua với 426/427 đại biểu có mặt tán thành, chiếm 89,87% tổng số đại biểu. Luật gồm 4 chương, 42 điều, quy định nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự.

Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài.

Về nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự, Luật quy định: Tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trường hợp Việt Nam và nước ngoài không cùng là thành viên của điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự thì việc tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.

Luật quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự.

Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự có trách nhiệm làm đầu mối trao đổi thông tin, tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự; từ chối hoặc hoãn thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự theo thẩm quyền; phối hợp với các cơ quan có liên quan xem xét, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự; đề xuất việc ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật tương trợ tư pháp về hình sự và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.