Hôm nay (25/11), sau nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035, các đại biểu Quốc hội có nhiều ý kiến góp ý nhằm khắc phục bất cập, nâng vao chất lượng giáo dục.

Hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục

Theo Tờ trình, Chương trình được thực hiện trong 2 giai đoạn. Tổng vốn để thực hiện giai đoạn 2026-2030 tối thiểu là 174.673 tỷ đồng và 405.460 tỷ đồng cho giai đoạn 2031-2035.

Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030 đạt 4 nhóm mục tiêu cụ thể, gồm: Từng bước chuẩn hóa hệ thống giáo dục mầm non, phổ thông; từng bước hình thành 6 trung tâm quốc gia và 12 trung tâm vùng đào tạo nhân lực có kỹ năng nghề cao; từng bước đầu tư chuẩn hóa, hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, mở rộng không gian phát triển cho các cơ sở giáo dục đại học; nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học.

Chính phủ nêu rõ mục tiêu tập trung nguồn lực đầu tư hướng đến xây dựng kiên cố hóa 100% trường, lớp học; hoàn thành xây dựng mạng lưới trường phổ thông nội trú, nhà công vụ cho giáo viên tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Chính phủ cũng đặt mục tiêu phấn đấu đầu tư để hiện đại hóa cho 8 cơ sở giáo dục đại học công lập trọng điểm lọt nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á và tối thiểu có 1 trường đại học công lập lọt nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới ở một số lĩnh vực trọng điểm.

Một mục tiêu quan trọng khác tại Chương trình là từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân; thí điểm mô hình trường học phát triển năng lực sáng tạo, tư duy phản biện và hội nhập quốc tế; phát triển tài năng, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và phát triển toàn diện người học.

Chính phủ phấn đấu đến năm 2035 đầu tư xây dựng 100% các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông đạt chuẩn về cơ sở vật chất; 100% cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết: Ủy ban tán thành với sự cần thiết đầu tư Chương trình để thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Khắc phục bất cập về biên chế giáo viên

Tham gia thảo luận tại tổ về chủ chương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu bất cập về biên chế giáo viên, bố trí các điểm trường và đầu tư cơ sở vật chất trường lớp…

Tổng Bí thư cho biết ở nhiều xã vùng cao chỉ có 5-6 học sinh nhưng vẫn có một điểm trường với đủ giáo viên và cơ sở vật chất, gây lãng phí. Từ đó, yêu cầu các cơ quan tính toán gom học sinh về trường đủ chuẩn, có thể thuê phương tiện đưa đón học sinh. Giải pháp này sẽ hiệu quả hơn so với việc duy trì nhiều điểm trường nhỏ.

Tổng Bí thư cũng yêu cầu chủ động biên chế giáo viên theo quy định số học sinh/lớp, chứ không phải “xin” biên chế.

Theo Tổng Bí thư, chương trình mục tiêu cũng cần chuẩn hoá cơ sở vật chất của hệ thống trường học, trong đó ưu tiên kiên cố hoá các trường, lớp ở 248 xã vùng biên giới.

Ngoài ra, điều kiện sống của giáo viên vùng khó khăn cũng phải được lưu tâm. “Nhiều giáo viên trẻ dành cả thanh xuân cho điểm trường hẻo lánh nhưng thiếu nhà công vụ, thiếu môi trường xã hội, thậm chí khó lập gia đình. Vì vậy, cần chăm lo cơ sở vật chất phục vụ giáo viên, đặc biệt ở vùng khó khăn để họ có thể lập gia đình và an tâm công tác”. Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Góp ý vào việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đại biểu Lê Thu Hà, Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai cho rằng “không có giáo viên mạnh thì không thể có một nền giáo dục mạnh”. Soi chiếu với nội dung của chương trình, bà kiến nghị ban hành chuẩn nghề nghiệp giáo viên mới, trong đó nhấn mạnh năng lực số và năng lực đánh giá. Ngoài ra, theo bà cần thiết lập chế độ đãi ngộ đặc thù cho giáo viên vùng khó khăn, như nhà công vụ, phụ cấp, đào tạo miễn phí; đào tạo và bồi dưỡng cho giáo viên từ 80 đến 100 giờ/năm/giáo viên như thông lệ quốc tế.

Để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2

Chương trình đề ra mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đó, năm 2030 phấn đấu tối thiểu 30% cơ sở giáo dục phổ thông có giáo viên đủ năng lực giảng dạy một số môn khoa học tự nhiên và STEM/STEAM bằng tiếng Anh và triển khai thí điểm dạy học bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai ở một số môn. Năm 2035 phấn đấu đạt 100% cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Theo đại biểu Đoàn Thị Lê An, Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng, đây là định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, bà băn khoăn về tính khả thi của mục tiêu này.

Theo bà, để triển khai thành công, chúng ta cần đánh giá thẳng thắn, kỹ lưỡng những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất cũng như nhân lực và môi trường để triển khai.

“Hiện nay, chúng ta có những vướng mắc về cơ sở vật chất, về nguồn lực và giáo viên. Sự chênh lệch đầu tư về cơ sở vật chất giữa các vùng miền rất lớn. Mạng Internet tuy được cải thiện mạnh, song tốc độ và hạ tầng chưa đồng đều để triển khai dạy học trực tuyến hỗ trợ tiếng Anh”, bà An lo ngại.

Bà An cho biết ở khu vực miền núi, như tại tỉnh Cao Bằng, gần 70% trường phổ thông vẫn chưa đạt chuẩn về thiết bị công nghệ phục vụ học ngoại ngữ. Nhiều điểm trường lẻ của vùng dân tộc thiểu số hiện chưa có phòng học kiên cố. Vì vậy, theo bà chỉ tiêu 30% vào năm 2030 có thể khả thi ở các tỉnh, thành phố lớn. Còn ở khu vực miền núi như Cao Bằng, Tuyên Quang, Lai Châu… - những nơi điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ, đó là thách thức rất lớn.

Để đạt được mục tiêu đề ra, bà An kiến nghị đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; hỗ trợ đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi và có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương.

Cùng mối quan tâm, đại biểu Ma Thị Thúy, Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang cho rằng tính khả thi của mục tiêu “30% cơ sở giáo dục phổ thông có giáo viên đủ năng lực giảng dạy một số môn khoa học tự nhiên và STEM/STEAM bằng tiếng Anh và triển khai thí điểm dạy học bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai ở một số môn” là không cao, đặc biệt là tại các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

“Nhiều xã miền núi hiện còn thiếu giáo viên tiếng Anh cơ bản; hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị nghe - nhìn còn rất hạn chế. Việc yêu cầu 100% cơ sở giáo dục có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai vào năm 2035 là mục tiêu rất cao, tiệm cận với các quốc gia phát triển”, đại biểu Ma Thị Thúy nêu thực tế.

Đại biểu Ma Thị Thúy kiến nghị Chính phủ cân nhắc lộ trình đặc thù cho miền núi; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kết nối lớp học trực tuyến, AI để bù đắp thiếu giáo viên; xây dựng trung tâm tiếng Anh vùng khó khăn theo mô hình liên xã.