Sáng nay (23/12), Trường ĐH Mở Hà Nội đã tổ chức Hội thảo quốc gia “Đổi mới công tác đào tạo luật tại các cơ sở giáo dục đại học trong kỷ nguyên số ở Việt Nam hiện nay”.

Đào tạo luật trong bối cảnh AI và chuyển đổi số

Kỷ nguyên số, với động lực chính là công nghệ số và chuyển đổi số hiện hữu trên mọi phương diện của đời sống xã hội. Trong đó đào tạo luật trong các cơ sở giáo dục đại học không phải ngoại lệ.

Nếu như chỉ hơn 2 năm trước, nhiều người còn hoài nghi về cái gọi là AI, BigData (dữ liệu lớn) thì giờ đây những thành tựu, sản phẩm ứng dụng các công nghệ này đã xuất hiện rộng khắp dưới dạng các sản phẩm thương mại.

Tốc độ thay đổi và ứng dụng công nghệ nhanh chóng đòi hỏi các trường đại học đào tạo ngành luật cần tìm ra hướng đi nhằm đổi mới công tác đào ngành này.

Từ thực tế này, PGS.TS Nguyễn Thị Nhung – Hiệu trưởng Trường ĐH Mở Hà Nội “đặt hàng” các chuyên gia nhiều vấn đề liên quan đến đào tạo luật. Theo đó, một cơ sở đào tạo đào tạo luật bậc đại học phải mất 3 năm rưỡi đến 4 năm (đối tượng văn bằng 2 không dưới 2,5 năm) để tạo ra một sản phẩm.

Vậy một chương trình đào tạo nên định vị bằng triết lý, mục tiêu nào? Làm sao để hiện thực hóa mục tiêu nhằm bắt kịp những thay đổi và đòi hỏi chính đáng từ thực tiễn.

Từ đó, chuẩn đầu ra, học phần, phương pháp tổ chức dạy và học, kiểm tra đánh giá… sẽ cần “cách mạng hóa” như thế nào? Nhà trường, giảng viên, người học, cùng mạng lưới người sử dụng lao động và các bên liên quan - tạo ra 4 trụ cột cần kết nối cần hợp tác với nhau ra sao để hiện thực hóa các mục tiêu trên?

Đào tạo luật đáp ứng thị trường dịch vụ pháp lý chất lượng cao

Trao đổi tại hội thảo, GS.TS.Võ Khánh Vinh - Trường ĐH Kiểm Sát cho rằng, sự xuất hiện của các lĩnh vực pháp lý mới như: trí tuệ nhân tạo, dữ liệu cá nhân, an ninh mạng, fintech và kinh tế chia sẻ…đòi hỏi sự thay đổi tư duy trong đào tạo luật. Đó là chưa kể việc hội nhập quốc tế sâu rộng buộc đào tạo luật trong các cơ sở giáo dục đại học gắn liền với các chuẩn mực pháp lý quốc tế.

Theo ông Vinh, cần chuyển từ tiếp cận truyền thống sang tiếp cận năng lực, kết hợp hài hòa giữa đào tạo học thuật và kỹ năng nghề nghiệp để đáp ứng thị trường dịch vụ pháp lý chất lượng cao.

Hiện, chúng ta còn nặng về học thuật. Trong khi đó, các doanh nghiệp hiện đòi hỏi nhân sự ngành luật chất lượng cao, có năng lực pháp lý. Từ đó, GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng cần thay đổi triết lý và mô hình đào tạo.

Về đổi mới chương trình, cần cập nhật các lĩnh vực như pháp luật về AI, dữ liệu số, an ninh phi truyền thống và kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, nhấn mạnh tăng cường đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Điều này đòi hỏi hệ thống đi kèm từ: phòng học, phương tiện, trang thiết bị, diễn án, tiếp xúc giữa đội ngũ giảng viên và người làm công tác thực tiễn…

Ngoài ra, phương pháp giảng dạy cần hiện đại hóa thông qua án lệ, mô phỏng và học tập dựa trên dự án. Người học luật cũng cần được trang bị kiến thức đa ngành về triết học, kinh tế, xã hội và tâm lý học để hiểu rõ nguồn gốc và giá trị của luật pháp trong thực tiễn. Ông Vinh đề xuất xây dựng cộng đồng học thuật vào hệ sinh thái nghiên cứu pháp lý trong cơ sở giáo dục đào tạo luật.

AI có thể phân tích án lệ, hợp đồng: Người học luật cần năng lực gì?

Trên thực tế, trí tuệ nhân tạo (AI) có thể thực hiện được nhiều công việc như: phân tích án lệ, phân tích hợp đồng, phát hiện rủi ro pháp lý… TS. Phan Đăng Hải, Phó Trưởng Khoa Luật - Học viện Ngân hàng cho biết, trong một số trường hợp AI cũng có thể dự đoán hoặc hỗ trợ công việc soạn thảo văn bản với tốc độ cao với độ chính xác nhất định.

Từ đó, mô hình giảng dạy hiện tại đứng trước thách thức nếu chỉ truyền bá kiến thức pháp luật mà ít chú trọng kỹ năng hành nghề luật sư hay đạo đức sử dụng AI. TS Phan Đăng Hải cho rằng, cần phải chuyển hướng từ đào tạo kiến thức pháp luật sang đào tạo về năng lực pháp lý.

Nhiều quốc gia đã bắt đầu thiết lập các tiêu chuẩn năng lực đặc thù cho người hành nghề luật trong kỷ nguyên công nghệ. Điển hình như Singapore xác định rõ các nhóm năng lực cốt lõi bao gồm: năng lực công nghệ, tư duy phân tích dữ liệu và đạo đức nghề nghiệp khi sử dụng công nghệ.

Một số quốc gia thì chú trọng hình thành kỹ năng mới cho sinh viên như: tư duy dữ liệu, khai thác và đánh giá công cụ AI pháp lý, kỹ năng nghiên cứu liên ngành, nâng cấp tư duy phản biện…

Theo ông Hải, tư duy phản biện là yêu cầu bắt buộc đối với người học luật. Tuy nhiên phản biện nâng cao đòi hỏi khả năng kiểm chứng những sản phẩm đầu ra của AI.

Các trường đại học hàng đầu như Stanford (Mỹ) đã xây dựng các chương trình kết hợp giữa pháp lý và công nghệ, giảm bớt dung lượng pháp luật thuần túy để tăng cường các học phần công nghệ.

Bên cạnh đó, một số trường còn triển khai các khóa học ngắn hạn cho những người đã hành nghề để cập nhật kỹ năng công nghệ mới. Thành lập các trung tâm, phòng thí nghiệm ứng dụng AI trong trường luật và tăng cường hợp tác với các công ty AI tech./.