Nhà khoa học tiên phong trong công nghệ sinh học nông nghiệp
Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để đưa đất nước phát triển bứt phá. Trong lĩnh vực nông nghiệp, GS.TS Lê Huy Hàm là một trong những gương mặt tiêu biểu góp phần cụ thể hóa tinh thần đó. Ông nguyên là Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, hiện là Chủ nhiệm Chương trình Công nghệ sinh học Quốc gia và chuyên gia cao cấp tại Khoa Công nghệ Nông nghiệp, Trường Đại học Công nghệ (ĐHQG Hà Nội).
Ông được đánh giá là người tiên phong đưa công nghệ sinh học vào chọn tạo giống cây trồng: từ nuôi cấy mô, nhân giống sạch bệnh đến các giống chịu hạn, chịu ngập, chịu mặn - những hướng nghiên cứu trực tiếp phục vụ mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực và nâng cao giá trị nông sản. Những đóng góp ấy đã mang lại cho ông nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Lao động hạng Nhất, Bằng khen của Thủ tướng và Danh hiệu “Nhà khoa học của nhà nông”…
Từ câu chuyện chuối giống đến bước tiến của vi nhân giống
Một trong những dấu ấn đáng nhớ trong sự nghiệp của GS.TS Lê Huy Hàm xuất phát từ một quan sát rất đời thường: người dân phải đi gom từng gốc chuối giống để trồng cho doanh nghiệp. Cách làm đó khiến giống không đồng đều, chi phí cao và chứa nguy cơ lây lan mầm bệnh.
Từ trăn trở đó, ông cùng cộng sự triển khai quy trình nhân giống chuối bằng nuôi cấy mô. Chỉ sau vài tháng, cây giống sạch bệnh, đồng đều đã được chuyển giao cho nông dân nhiều địa phương. Thành công này mở đường cho quy trình vi nhân giống nhiều loài cây khác như mía, cây lâm nghiệp, hoa, cây cảnh… Mỗi năm, hàng trăm triệu cây giống được cung cấp cho sản xuất, tạo nền tảng quan trọng để hiện đại hóa nông nghiệp.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, GS Hàm hướng các đề tài vào các giống cây thích ứng điều kiện bất lợi. Nhóm của ông đã chọn tạo được giống lúa chịu mặn tới 6‰ – mức cho phép canh tác ở các vùng ven biển bị xâm nhập mặn. Đây là tiền đề để tiếp tục phát triển các giống chịu mặn cao hơn trong tương lai. Ông cũng tham gia nghiên cứu giống sắn kháng bệnh khảm lá, góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách của sản xuất.
Điểm nổi bật trong phong cách nghiên cứu của ông là luôn bắt đầu từ thực tiễn, quay về phòng thí nghiệm để trả lời bằng khoa học rồi trở lại đồng ruộng kiểm chứng. Nhờ vậy, nhiều kết quả nghiên cứu sớm đi vào ứng dụng thay vì nằm trên báo cáo.
Dấu ấn người thầy: nghiêm khắc nhưng giàu trách nhiệm
Không chỉ miệt mài nghiên cứu, GS.TS Lê Huy Hàm còn là người thầy tận tụy với công tác đào tạo. Ông tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh, học viên cao học tại nhiều cơ sở đào tạo. Với ông, nghiên cứu và đào tạo “không thể tách rời”: nghiên cứu tạo ra kiến thức mới, còn đào tạo tạo ra đội ngũ kế cận.
Trong nhận xét của học trò, thầy Hàm là một người thầy tận tâm, tận tụy, thầy không cầm tay chỉ việc nhưng luôn định hướng rất rõ để học trò biết mình phải đi theo hướng nào. Nhiều luận án do ông hướng dẫn, từ nghiên cứu chuyển gen, tạo giống lúa chịu mặn đến cải thiện năng suất cây trồng đã đạt kết quả xuất sắc và mang giá trị ứng dụng cao.
Không chỉ trên giảng đường, lối sống giản dị, sự tận tụy và tinh thần trách nhiệm của ông cũng là bài học lớn cho nhiều thế hệ nhà khoa học trẻ.
Trăn trở để khoa học thực sự trở thành “đột phá”
Ở góc nhìn của một nhà khoa học nhiều năm làm quản lý, GS.TS Lê Huy Hàm cho rằng, để khoa học công nghệ thực sự trở thành động lực đột phá như tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Việt Nam cần tập trung vào ba trụ cột lớn.
Trụ cột thứ nhất là đột phá về kinh phí cho khoa học công nghệ. Chúng ta luôn khẳng định đây là lĩnh vực then chốt, nhưng nguồn lực tài chính dành cho nghiên cứu nhiều năm qua vẫn còn “ít ỏi”, khó tạo nên những chương trình, đề án đủ lớn và dài hơi.
Trụ cột thứ hai là sắp xếp, tinh gọn hệ thống tổ chức khoa học. Hiện nay, các cơ quan nghiên cứu, đầu mối quản lý còn phân tán, trong khi kinh phí hạn chế, khiến nguồn lực bị chia nhỏ. Theo GS.TS Lê Huy Hàm, cần có động thái quyết liệt để sắp xếp lại đầu mối, phân công rõ ràng giữa các viện, trường, hình thành những tập thể đủ mạnh theo đuổi các nhiệm vụ lớn.
Trụ cột thứ ba mang tính bao trùm là đột phá về thể chế. Nếu không có cơ chế, chính sách phù hợp, rất khó thu hút và giữ chân nhân tài, cũng như sử dụng hiệu quả vốn Nhà nước dành cho khoa học công nghệ. Nhiều quy định bất cập tồn tại quá lâu, làm suy giảm tiềm lực của ngành. Việc hoàn thiện thể chế vì thế phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Khi phát hiện quy định không còn phù hợp cần kịp thời điều chỉnh, để khoa học công nghệ có điều kiện phát triển đúng với kỳ vọng.
