Từ nhân là một từ Hán Việt, có nhiều nghĩa, trong đó có các nghĩa đáng chú ý là “người”, “lòng thương người”, “hạt” hay “hột”, “”nguyên nhân”, “nhân tiện”, “phép nhân”,…
Khi nhân kết hợp với các yếu tố khác có thể tạo nên nhiều từ ghép với nghĩa khác nhau.
Với từ ghép nhân cách, TS Phạm Văn Lam - Tổng thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam giải thích nhân cách thường được hiểu là “tư cách và phẩm chất con người”.
Trong khoa học, đặc biệt là trong tâm lí học, đạo đức học, nhân cách là một khái niệm khá phức tạp.
Về cơ bản, chúng ta có thể hiểu nhân cách là “tổng thể thuộc tính tâm lí của cá nhân, hình thành nên bản sắc và giá trị xã hội của con người”.
Xét theo khía cạnh này, nhân cách chính là “những gì có trong hành vi, nhận thức, cảm xúc thuộc về cá nhân con người xét về mặt bản chất xã hội, hoạt động xã hội và giá trị xã hội”.
Còn nhân hòa được hiểu là “cái hoà của lòng người”, “là sự hoà thuận, đoàn kết nhất trí giữa mọi người với nhau”.
Nhân hoà thường được xem là “một trong ba điều kiện then chốt, cùng với thiên thời, địa lợi, để làm nên thắng lợi, thành công, theo quan niệm xưa”.
TS Phạm Văn Lam cũng giải nghĩa 2 từ ghép nhân khẩu và nhân lực. Theo TS, 2 từ này đều nói về “con người” nhưng nhân lực hiểu đơn giản là “sức người, sức lao động”. Nhân lực nói về “tiềm năng, tiềm lực lao động của con người, bao gồm cả trí lực (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, sự sáng tạo…) và thể lực (sức khỏe vật lí), được sử dụng trong quá trình sản xuất, quản lí và phát triển của một tổ chức hoặc xã hội”.
Trong khi đó, nhân khẩu được hiểu là “người trong một gia đình, một địa phương, xét về mặt số lượng”.
Trả lời thắc mắc của thính giả Nguyễn Quang Tiến ở xã Hồng Tiến, thành phố Hà Nội về ý nghĩa câu thành ngữ “nhân định thắng thiên”, TS Phạm Văn Lam giải thích là “sự kiên định của con người sẽ thắng được ông trời”.
Nhìn chung, thành ngữ này nói đến “ý chí, nghị lực, lòng quyết tâm của con người có thể thắng được ý trời, vượt qua được hoàn cảnh, chiến thắng được khó khăn, có thể thay đổi được số phận, vận mệnh, định mệnh”.
Trong chương trình Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, TS Phạm Văn Lam còn giải thích về từ nhân sinh quan.
Theo TS, nhân ở đây vẫn nói về “con người, cuộc sống hay cuộc đời của con người”.
Có thể hiểu nhân sinh quan là “quan niệm có tính hệ thống về cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích sống của con người”.
Nói cách khác, nhân sinh quan là “hệ thống quan điểm, tư tưởng, niềm tin và thái độ của con người đối với cuộc sống, cuộc đời”, được phân biệt với thế giới quan, tức “cách con người nhìn nhận về toàn bộ thế giới” và là “lăng kính” định hình lối sống, thái độ sống và cách ứng xử của chúng ta trong xã hội.
