Mỗi chính sách y tế khi đi vào cuộc sống đều cần thời gian để chứng minh sức sống của nó. Với Dự án 7 - Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em thuộc Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, 5 năm qua là một quãng đủ dài để nhìn lại: chính sách ấy đã “chạm” được tới đâu và còn bỏ sót những ai.
Có những con số đáng mừng khi ngày càng nhiều phụ nữ mang thai được theo dõi sức khỏe, nhiều trẻ em được chăm sóc dinh dưỡng đúng cách. Nhưng cũng có những phần chưa trọn vẹn khi sự khác biệt về điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ nhận thức và khả năng tổ chức ở các địa phương vẫn còn rất lớn.
Trao đổi với phóng viên, ông Đinh Anh Tuấn - Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em (Bộ Y tế) cho rằng Dự án 7 đã tạo ra những thay đổi “khá căn bản” về sức khỏe bà mẹ, trẻ em ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhưng diện bao phủ và cách triển khai giữa các địa phương còn rất khác nhau.
Những con số biết nói
Theo ông Đinh Anh Tuấn, chỉ trong vài năm triển khai, Dự án 7 đã can thiệp trực tiếp tới hàng trăm nghìn phụ nữ và trẻ em ở vùng khó khăn.
“Có tới 300.000 phụ nữ mang thai đã được bổ sung sắt và acid folic để phòng chống thiếu máu trong thai kỳ; khoảng 40.000 trẻ suy dinh dưỡng được bổ sung vi chất kịp thời; 360.000 bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc tại nhà” ông Tuấn cho biết.
Dự án cũng cấp khoảng 13.000 gói đỡ đẻ sạch và hỗ trợ 3.000 phụ nữ sinh tại nhà có nhân viên y tế đặc biệt là đội ngũ cô đỡ thôn bản trực tiếp hỗ trợ trong cuộc sinh. Hiện có 1.308 cô đỡ thôn bản được hưởng phụ cấp hàng tháng trên tổng số hơn 1.600 cô đỡ đang hoạt động.
Ở lĩnh vực dự phòng, hơn 210.000 phụ nữ có thai được xét nghiệm phát hiện các bệnh lây truyền từ mẹ sang con như viêm gan B, giang mai…; hơn 282.000 phụ nữ được xét nghiệm protein niệu để phát hiện sớm tiền sản giật và can thiệp kịp thời.
Với trẻ nhỏ, lần đầu tiên Việt Nam triển khai gói khám sức khỏe định kỳ cho trẻ dưới 24 tháng tuổi tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
“Mỗi trẻ dưới 24 tháng tuổi được hỗ trợ khám sức khỏe định kỳ 6 tháng một lần, tổng cộng 4 lần. Đến nay đã có khoảng 450.000 trẻ được khám, trong đó hơn 71.800 cháu được khám đủ từ 0 đến 24 tháng” - ông Tuấn chia sẻ.
Những can thiệp đó đã góp phần làm giảm rõ rệt tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong trẻ em và cải thiện suy dinh dưỡng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, dù đánh giá cuối kỳ toàn diện vẫn đang được hoàn thiện.
“Trước đây, ở một số nhóm dân tộc, tỷ lệ tử vong mẹ có lúc cao gấp 7 - 8 lần so với mặt bằng chung cả nước; tử vong trẻ em, suy dinh dưỡng cũng cao gấp 3 - 4 lần. Nay các chỉ số này đã giảm đáng kể, tốc độ giảm còn nhanh hơn mức giảm chung toàn quốc” Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em nhấn mạnh.
Những con số ấy chỉ thực sự có ý nghĩa khi soi vào đời sống của từng gia đình. Ở xã Hồng Thái (Tuyên Quang), một xã khó khăn có đông đồng bào dân tộc thiểu số, câu chuyện của các bà mẹ phần nào cho thấy sự thay đổi.
7 năm trước, chị Lý Thị Thu sinh con đầu lòng. Nghĩ mình ít sữa, chị cho con bú sữa ngoài ngay từ khi mới chào đời. Mới 3 tháng tuổi, chị cho con ăn bột loãng vì sợ con đói. Đến khi bé lên 7 tuổi, con chị vẫn thấp còi, suy dinh dưỡng so với bạn bè.
Mang thai bé thứ hai, chị Thu được mời tham gia câu lạc bộ chăm sóc trẻ 1.000 ngày đầu đời tại trạm y tế. Ở đó, chị được nghe cán bộ y tế hướng dẫn về bú mẹ hoàn toàn, ăn bổ sung theo từng giai đoạn, cũng như tầm quan trọng của khám định kỳ:
“Qua truyền thông em hiểu hơn về kiến thức chăm con, con biếng ăn em biết bổ sung chất này, chất kia để con đỡ hơn, thấy được tầm quan trọng của việc cho trẻ ăn đủ chất để trẻ không bị suy dinh dưỡng…” chị Thu chia sẻ.
Chị Hoàng Kim Loan, cùng xã Hồng Thái, cũng từng “loay hoay” trong những tháng đầu nuôi con. Từ khi tham gia các buổi truyền thông, chị thay đổi thói quen chăm sóc:
“Con em được hơn 8 tháng, em vẫn cho con bú, đến 2 tuổi mới cai sữa. Cứ mồng 10 hàng tháng em chủ động mang con xuống trạm y tế để tiêm chủng bảo vệ con không bị ốm…” chị nói.
Từ góc nhìn tuyến y tế cơ sở, y sĩ Nông Thị Thà cho biết những thay đổi nhỏ nhưng đều đặn ấy đã giúp xã Hồng Thái không xảy ra các bệnh dịch truyền nhiễm nguy hiểm ở trẻ em trong những năm gần đây, đồng thời giảm mạnh sinh đẻ tại nhà:
“Giờ chỉ còn 2 ca đẻ tại nhà, là người Mông. Họ vẫn đi khám thai đều, nhưng lúc sinh bảo nhà xa trạm nên đẻ tại nhà, gọi y tá đến hỗ trợ…” chị Thà cho biết.
Đáng chú ý, dù là xã khó khăn, nhờ được tập huấn và hỗ trợ trang thiết bị từ các chương trình, trạm y tế Hồng Thái đã quản lý tiêm chủng trên hệ thống điện tử:
“Sau khi trẻ được tiêm BCG và viêm gan B sẽ được đưa vào hệ thống… Mồng 10 hàng tháng, chúng tôi căn cứ danh sách để thông báo tới từng bà mẹ đưa con đi tiêm. Trường hợp phải đến tận nhà vận động vẫn có nhưng là số ít…” y sĩ Quan Trung Sỹ chia sẻ.
Từ những câu chuyện ở Hồng Thái, có thể thấy Dự án 7 không chỉ dừng ở việc “đưa dịch vụ y tế đến gần dân hơn”, mà còn tạo chuyển biến bền vững trong thói quen chăm sóc sức khỏe của cộng đồng.
Vì sao nơi làm tốt, nơi còn loay hoay?
Dù vậy, Dự án 7 không đạt hiệu quả đồng đều ở tất cả các địa phương. Theo ông Đinh Anh Tuấn, điểm khác biệt chính nằm ở cách tổ chức và mức độ chủ động của chính quyền cơ sở.
Với các can thiệp như bổ sung vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai, trẻ suy dinh dưỡng, việc đầu tiên là phải phát hiện đúng đối tượng. Sau đó mới đến khâu mua sắm sản phẩm dinh dưỡng theo hướng dẫn chuyên môn. Tuy nhiên, nhiều địa phương bị “tắc” ngay ở bước mua sắm.
Khi nguồn lực được phân cấp, kinh phí dành cho mỗi huyện, mỗi nhóm xã không lớn, số lượng sản phẩm cần mua cũng không nhiều, trong khi đơn vị được giao tổ chức mua sắm (như phòng y tế huyện) lại không đủ năng lực xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật cho sản phẩm dinh dưỡng. Điều này khiến nhiều nơi lúng túng, chậm trễ.
Một số tỉnh đã tìm được cách đi linh hoạt hơn: ủy quyền cho trung tâm y tế - đơn vị có chuyên môn đứng ra mua sắm hoặc tổ chức đấu thầu tập trung cấp tỉnh để nâng số lượng, thu hút nhà thầu, vừa dễ chọn được sản phẩm đảm bảo chất lượng, vừa có giá tốt hơn.
Khoảng trống chính sách và bước đi tiếp theo
Nhìn lại 5 năm triển khai, điều khiến Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em trăn trở nhất là diện bao phủ còn hạn chế của Dự án 7.
Ngân sách trung ương mới chỉ hỗ trợ các xã vùng đặc biệt khó khăn. Các xã còn lại trong vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải trông chờ vào ngân sách địa phương. Có tỉnh quan tâm, bố trí đủ nguồn lực; có tỉnh đầu tư ít; thậm chí có nơi “hầu như không đầu tư” cho các can thiệp chuyên biệt về sức khỏe bà mẹ, trẻ em.
Song song Dự án 7, Dự án 8 của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng hỗ trợ trực tiếp cho phụ nữ khi đi khám thai, sinh con tại cơ sở y tế. Tuy nhiên, chính sách này chưa được triển khai đồng bộ, nên hiệu quả còn hạn chế.
Một số địa phương vẫn e dè, sợ trách nhiệm trong việc mua sắm sản phẩm dinh dưỡng, triển khai cơ chế thanh toán dịch vụ khám chữa bệnh, dẫn đến chậm trễ trong can thiệp cho bà mẹ và trẻ em – dù khung pháp lý đã tương đối đầy đủ.
Cho giai đoạn tới, định hướng của Bộ Y tế là tập trung các can thiệp về sức khỏe bà mẹ, trẻ em và dinh dưỡng vào một Chương trình Mục tiêu Quốc gia về chăm sóc sức khỏe và dân số, thay vì phân tán trong nhiều chương trình.
“Chúng tôi đề xuất giữ lại những can thiệp đã chứng minh được hiệu quả – như hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn bản, cải thiện dinh dưỡng bà mẹ và trẻ em, các gói chăm sóc trước - trong - sau sinh, gói khám sức khỏe định kỳ cho trẻ em - đồng thời mở rộng thành gói khám sức khỏe định kỳ toàn dân trong chương trình mới” - ông Đinh Anh Tuấn cho biết.
Sau 5 năm, Dự án 7 đã mở một hành trình không dễ dàng, nhưng những thay đổi tích lũy từng ngày đã nhìn thấy được: ít hơn những ca tử vong mẹ và trẻ em có thể phòng tránh; nhiều hơn những đứa trẻ vùng khó khăn được theo dõi sức khỏe, được ăn uống và chăm sóc đúng cách ngay từ 1.000 ngày đầu đời.
Khoảng trống vẫn còn, sự chênh lệch giữa các vùng vẫn tồn tại, nhưng chính từ những trải nghiệm đó, những bước điều chỉnh chính sách cho giai đoạn tiếp theo đang được xây dựng, với mục tiêu để không một bà mẹ, một đứa trẻ nào bị bỏ lại phía sau chỉ vì nơi họ sinh sống là một bản làng xa nhất trên bản đồ.
