Sau hơn một năm thi hành, Luật Đất đai 2024 đã bộc lộ một số bất cập. Trong đó, quy định về việc thu hồi đất và bồi thường được đánh giá là “điểm nghẽn”, là “nút thắt”, khiến nhiều dự án bị treo và chậm tiến độ, thậm chí không thể triển khai. Từ thực tế này, đa số đại biểu cho rằng việc Quốc hội ban hành một nghị quyết nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành luật đất đai là cần thiết và kịp thời. Tuy nhiên, theo các đại biểu, quy định như trong Dự thảo vẫn chưa thật rõ ràng, chi tiết.
Cần làm rõ cơ sở thu hồi đất
Một trong những nội dung đáng chú ý của dự thảo Nghị quyết là việc bổ sung 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Trong số này, trường hợp “sử dụng đất để thực hiện dự án thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hết thời hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận hoặc hết thời gian gia hạn phải hoàn thành thỏa thuận mà đã thỏa thuận được trên 75% diện tích đất và trên 75% số lượng người sử dụng đất thì HĐND cấp tỉnh xem xét, thông qua việc thu hồi phần diện tích đất còn lại để giao đất, cho thuê đất cho chủ đầu tư”, được các đại biểu quan tâm nhất.
Theo đại biểu Lê Xuân Thân, Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa, các quy định về điều kiện thu hồi đất trong trường hợp này chưa rõ ràng, thậm chí thiếu cơ sở pháp lý.
“Với dự án thu hồi đất mà đạt 75% thỏa thuận và 75% số người sử dụng đất đồng ý. Còn lại 25% là thu hồi. Tôi thấy chỗ này cần phải nghiên cứu lại, vì mục đích thu hồi không đáp ứng Điều 78 và Điều 79 của Luật đại”, đại biểu Lê Xuân Thân nêu rõ.
“Đây là dự án về phát triển kinh tế của các nhà đầu tư và cơ chế là thỏa thuận. Tại sao lại chúng ta lại dùng biện pháp quyền lực Nhà nước là cưỡng chế để thu hồi đất với dự án mà chúng ta đã xác định là dự án theo cơ chế thỏa thuận của nhà đầu tư với người sử dụng đất?”, đại biểu Lê Xuân Thân đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ.
Đại diện cho cử tri của tỉnh Lai Châu, đại biểu Nguyễn Hữu Toàn cũng băn khoăn về ngưỡng tiến hành thu hồi đất khi nhà đầu tư đã thỏa thuận được trên 75% diện tích và nhận được sự đồng thuận của trên 75% số lượng chủ sử dụng đất trong phạm vi thực hiện dự án.
Ông cho rằng, nội dung này cần được xem xét thật kỹ để đảm bảo quyền lợi của chủ sử dụng đất, nhất là với những trường hợp thuộc 25% còn lại.
“Về thủ tục thu hồi đất liên quan đến tỷ lệ 75 % này, Dự thảo Nghị quyết có nêu cái này không cần phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Vậy có phải coi đây là trường hợp dự án khẩn cấp? Tôi đề nghị phải cân nhắc, vì như thế là đặt ngang với các dự án liên quan đến quốc phòng, an ninh và các dự án khẩn cấp khác. Trong trường hợp này, với 25 % còn lại, không cẩn thận là người có đất bị thu hồi sẽ thiệt thòi kép”, ông Toàn lo ngại.
Quy định về chính sách bồi thường chưa cụ thể
Nội dung quy định về việc bồi thường cho người có đất bị thu hồi khiến các đại biểu Quốc hội còn băn khoăn. Cụ thể, theo đại biểu Đặng Thị Mỹ Hương, Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa, đó là quy định tại khoản 6 Điều 3: “Trường hợp bồi thường bằng đất ở tại chỗ mà giá đất tại vị trí được bồi thường bằng đất ở tại chỗ chưa có trong bảng giá đất thì Chủ tịch UBND cấp xã căn cứ vào giá đất trong bảng giá đất tại vị trí tương tự để quyết định giá đất để bồi thường bằng đất ở tại chỗ trong phương án bồi thường...”.
Đại biểu Đặng Thị Mỹ Hương cho rằng quy định như vậy là chưa cụ thể. Để đảm bảo quyền lợi cho người có đất bị thu hồi, đồng thời tránh phát sinh mâu thuẫn, khiếu nại, bà Hương đề suất bổ sung một số tiêu chí làm căn cứ định giá vị trí đất.
“Tôi đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu quy định về các tiêu chí, điều kiện cụ thể để làm công cụ cho chính quyền cấp xã xác định đâu là vị trí tương đương nhằm đảm bảo cái tính công khai, minh mạch và tạo sự đồng thuận của người dân”, bà Hương kiến nghị.
Theo đại biểu Nguyễn Quốc Luận, Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai, thời gian qua mâu thuẫn trong lĩnh vực đất đai tại một số địa phương thường liên quan đến khâu đền bù. Do người dân cảm thấy thua thiệt, thiếu công bằng nên khiếu kiện, khiếu nại. Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội đã đặt ra vấn đề này nhằm tháo gỡ. Tuy nhiên, ông cho rằng quy định như dự thảo vẫn chưa đủ chi tiết và rõ ràng để gỡ vướng.
“Đối với 75% diện tích nhà đầu tư thu hồi, có trường hợp họ thỏa thuận và trả cho người có đất bị thu hồi với mức giá cao. Nhưng có trường hợp, khi HĐND tỉnh thu hồi theo quy định của Nhà nước thì giá thấp hơn, hoặc có thể ngược lại. Điều này làm phát sinh mâu thuẫn. Chúng ta phải tính đến vấn đề này và có biện pháp ứng xử, nếu không sẽ vẫn gặp khó khi tổ chức thực hiện Luật Đất đai 2024”, đại biểu Nguyễn Quốc Luận băn khoăn.
Theo đại biểu Nguyễn Quốc Luận, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai cần quy định chi tiết, cụ thể về vấn đề này. Ông cũng gợi ý giải pháp linh hoạt là Dự thảo Nghị quyết giao cho Chính phủ quy định cụ thể.
Thực tế cho thấy việc thu hồi đất và đền bù là một trong những “nút thắt” khiến việc thi hành Luật Đất đai 2024 tại một số nơi, một số trường hợp, dự án bị “nghẽn”.
Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi đánh giá, những cơ chế như quy định trong dự thảo là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư khi đã đàm phán được phần lớn diện tích đất nhưng gặp khó khăn, không hoàn thành được việc giải phóng mặt bằng để triển khai dự án đúng tiến độ.
Tuy nhiên, đại diện cho cơ quan thẩm tra, ông cũng đề nghị làm rõ hơn cơ sở đề xuất tỉ lệ diện tích và tỉ lệ số người đồng thuận; cơ chế xử lý đối với diện tích còn lại của dự án khi nhà đầu tư đã thỏa thuận được trên 75% diện tích và nhận được sự đồng thuận của trên 75% số lượng chủ sử dụng đất trong phạm vi thực hiện dự án.
“Việc xử lý diện tích đất còn lại và số người có đất còn lại cần phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp; hạn chế phát sinh khiếu nại, khiếu kiện”, ông Mãi nhấn mạnh.
Các đại biểu kỳ vọng, khi ban hành, Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai 2024, sẽ hóa giải được vấn đề này và những tồn tại, bất cập khác.
