Danh nhân Lương Ngọc Quyến (tên chữ là Lương Lập Nham) sinh năm 1885 tại làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, là con trai thứ hai của nhà yêu nước Lương Văn Can, một trong những nhân vật cốt cán của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục những năm 1907-1908. Lớn lên trong một gia đình yêu nước, Lương Ngọc Quyến đã sớm chịu ảnh hưởng từ cha mẹ và tư tưởng tân học của những nhà cải cách.

Sớm có tinh thần yêu nước, kế thừa truyền thống của dân tộc và sự nghiệp của gia đình, năm 1900, sau khi bị đánh trượt trong kỳ thi khoa cử phong kiến, Lương Ngọc Quyến nhận ra rằng con đường học vấn theo lối cổ thư đã lỗi thời, không còn phù hợp với khát vọng giải phóng đất nước nên ông quyết tâm chuyển sang con đường tân học. Năm 1905, ông đã lên đường sang Nhật Bản tham gia phong trào Đông Du do nhà cách mạng Phan Bội Châu khởi xướng.

"Dưới ảnh hưởng của nhà yêu nước lỗi lạc, lừng lẫy là Phan Bội Châu thì ông đã sớm chọn con đường xuất dương Đông Du sang Nhật Bản để rèn luyện, học tập, tìm đường cứu nước. Ông đã có 3 năm học ở trường quân sự của Nhật Bản và tốt nghiệp với vị trí thứ ba..." - Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết.

Tại đây, Lương Ngọc Quyến không chỉ học tập, xây dựng mối quan hệ với các nhà cách mạng Đông Á mà còn tiếp tục với những tư tưởng cách mạng mới, góp phần định hình con đường cách mạng của mình. Đây là thời kỳ ông trở thành một trong những nhân vật trụ cột của phong trào Đông Du.

Năm 1914, Nhật Bản bị Pháp gây áp lực đã trục xuất những nhà yêu nước, trong đó có Lương Ngọc Quyến. Tuy nhiên, Lương Ngọc Quyến không về nước mà lánh sang Trung Quốc và ở đây, ông đã tham gia vào tổ chức Việt Nam Quang phục hội, được bầu vào Ủy viên Quân sự Bộ chấp hành.

Năm 1914, bị chỉ điểm, Lương Ngọc Quyến đã bị mật thám Anh bắt giao cho Pháp và áp giải về nước năm 1915. Thực dân Pháp biết ông là yếu nhân của Việt Nam Quang phục hội nên sau khi dụ dỗ, mua chuộc không được thì đã kết án tù chung thân, giam cầm hết vào đề lao Sơn Tây, đề lao Phú Thọ, lại đưa về Hỏa Lò.

Năm 1916, thực dân Pháp đày Lương Ngọc Quyến lên nhà lao Thái Nguyên nhằm kết liễu cuộc đời của nhà yêu nước bằng sự đối xử cực kỳ tàn bạo ở nơi địa ngục trần gian này. Nhưng, sau hơn một năm bị đọa đày, bại liệt nửa người, Lương Ngọc Quyến vẫn tìm mọi cách liên lạc, giác ngộ được những binh sĩ yêu nước, đứng đầu là Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn) ở Trại lính khố xanh và đưa vào kế hoạch tổ chức khởi nghĩa.

"Bị tra tấn hành hạ như thế nhưng Lương Ngọc Quyến vẫn không nguôi ý chí cứu nước, yêu nước của mình và giác ngộ, tìm những người đang sống trong bộ máy quân sự của người Pháp để tác động, cải tạo, lôi kéo, hướng dẫn họ vào con đường hoạt động yêu nước..." - Giáo sư sử học Lê Văn Lan cho biết.

Theo PGS.TS Đỗ Hồng Thái, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên, sự gặp gỡ giữa Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn là sự gặp gỡ của hai ý chí lớn dẫn đến cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30, rạng sáng ngày 31/8/1917: "Lực lượng quân lính Pháp và Âu Phi có mặt ở Thái Nguyên lên tới 1800, chưa kể đến lính khố xanh và chế độ cai trị hết sức hà khắc. Lương Ngọc Quyến đã gần gũi, trao đổi với Đội Cấn và tác động sâu sắc đến nhận thức và quyết định hành động của Đội Cấn, là yếu tố rất quan trọng trong việc hội tụ và hoạch định kế hoạch khởi nghĩa...".

Khởi nghĩa Thái Nguyên dưới sự lãnh đạo của Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn bùng nổ đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa theo đường lối bạo động không chỉ vang dội cả nước Việt Nam mà còn làm rung động nước Pháp và ảnh hưởng tới các xứ thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ, góp phần thức tỉnh Á Châu.

Sáng ngày mồng 4 tháng 9 năm 1917, quân Pháp tấn công vào trung tâm tỉnh lỵ. Lương Ngọc Quyến trong lúc đang chỉ huy chiến đấu trên trận địa trại lính khố xanh (nay là xã Vô Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên) thì bị thương và hi sinh. Hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng tên tuổi của danh nhân Lương Ngọc Quyến vẫn sáng ngời trong trang sử vẻ vang của dân tộc.

"Giới quân sự chúng tôi nói vui với nhau một ông là dũng tướng, một ông là nhân tướng, hai vị tướng gặp nhau tạo nên sức mạnh bổ sung cho nhau. Một ông thiên về vấn đề chỉ huy cầm quân, một ông thiên về đường hướng chiến lược thì nó tạo thành sức mạnh tổng hợp, giúp sức cho cuộc khởi nghĩa nổ ra và dù chưa đi đến đích cuối cùng nhưng đã đạt được những cột mốc quan trọng..." - PGS.TS, Đại tá Trần Ngọc Long, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam cho biết.

Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên tuy thất bại nhưng đã khơi dậy tinh thần đấu tranh mạnh mẽ trong nhân dân. Lê Ngọc Quyến trở thành biểu tượng của sự quả cảm, dám dấn thân vì lý tưởng cao đẹp, đồng thời thể hiện tầm nhìn sâu sắc và tư duy đổi mới trong hành trình đấu tranh cho độc lập dân tộc.

Trước những giá trị to lớn, sự đóng góp và hy sinh của danh nhân Lương Ngọc Quyến, một trong những chí sĩ tiêu biểu của phong trào yêu nước đầu thế kỷ 20, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng khu Di tích lịch sử tại nơi an táng của ông để thể hiện sự kính trọng, tri ân.

Năm 2017, nơi yên nghỉ của danh nhân Lương Ngọc Quyến được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh, trở thành địa chỉ giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ sau.