Danh nhân Nguyễn Công Thái (hiệu là Thuần Chính, thụy là Trung Mẫn Công, húy là Phấn, tên thường gọi là Nguyễn Công Thể) sinh năm Giáp Tý 1684 trong một gia đình có truyền thống nho học nổi tiếng ở làng Lủ, nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Từ năm 1702-1713, ông đã đỗ đầu 3 kỳ thi khảo trạch, thi hương, thi hội. Năm 1715, ông đỗ Đồng tiến sỹ khi 32 tuổi, về sau được triều đình nhà Lê - Trịnh tặng bức đại tự “Tứ trạng nguyên đồng” có nghĩa là ban cho như trạng nguyên. Từ đây, ông bắt đầu bước vào con đường quan lộ.

Thi đỗ và ra làm quan, ông được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử Nghệ An và Thanh Hóa, sau đó là Đốc đồng Hải Dương, Tham chính Kinh Bắc, Đông Các hiệu thư rồi Tế tửu Quốc Tử Giám, Hiệu trưởng trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Đây là sự thử thách trong công việc của triều đình khi giao phó cho những người có thực tài nắm giữ những trọng trách của đất nước.

Năm 1728, Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Công Thái nhận lệnh cùng quan Thị lang bộ Binh Nguyễn Huy Nhuận lên miền địa đầu phía Bắc, gặp gỡ các quan chức của nhà Thanh để giải quyết việc phân định biên giới. Theo PGS.TS Sử học Nguyễn Đức Nhuệ, đây chính là dịp mà danh nhân Nguyễn Công Thái thể hiện tài năng ngoại giao của mình.
"Cuối thế kỷ 17 đầu TK 18 thì thổ quan vùng Vân Nam thường xuyên lấn đất, lấn dân và Việt Nam thời kỳ đấy mất khoảng 40 dặm đất. Khu vực đấy có một mỏ đồng lớn được gọi là Tụ Long, trước đây Việt Nam vẫn khai thác nhưng từ khi bị phía bên kia chiếm thì đấu tranh đi, đấu tranh lại rất nhiều năm mà không đòi được. Đến năm 1728, Nguyễn Công Thái lên đấu tranh đòi lại cho được vùng đất này...", PGS.TS Sử học Nguyễn Đức Nhuệ cho biết.

Theo Giáo sư Sử học Lê Văn Lan, tài năng ngoại giao vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo đã được Sứ bộ Nguyễn Công Thái vận dụng bằng lý lẽ sắc sảo và đúng đắn. Ông đã khiến quan nhà Thanh buộc phải thỏa thuận với ta dựng bia đá ở hai bên bờ sông Đổ Chú làm mốc giới giữa hai nước. Từ đó biên giới hai nước được xác lập và ổn định.
"Sách “Khâm Định Việt sử thông giám cương mục” viết rõ ràng là bọn quan lại phương Bắc chỉ láo, tức là ngụy tạo cái con sông Đổ Chú sâu về phía Nam của đất mỏ Tụ Long và nếu hời hợt, qua loa, gật gù và ký nhận thì chúng ta mất một phần đất rất lớn. Cụ Nguyễn Công Thái lúc này bộc lộ khả năng làm nhiều, nói ít và đã làm là làm cho có hiệu quả. Cụ đi vượt qua các vùng rừng núi khó khăn hiểm trở, ngược lên phía Bắc đi sâu vào vùng đất bị chiếm, tìm ra được con sông Đổ Chú đích thực và cho lập một cái bia. Những hàng chữ do cụ viết và được khắc in ở đấy đến thế kỷ 19, đến thời Nguyễn thì vẫn còn ở đó" - Giáo sư Sử học Lê Văn Lan cho biết.

Cuộc đời danh nhân Nguyễn Công Thái đã trải qua nhiều tầng bậc ở chốn quan trường và đảm nhiệm nhiều cương vị khác nhau. Từ lĩnh vực quân sự đến bang giao, từ hành chính đến án tụng, từ quan trong triều đến quan ngoại chấn... Ở cương vị nào, ông cũng đều thể hiện tài năng của một trí thức lớn, với tinh thần tận tụy vì nước, vì dân và tấm lòng trung trinh, chính trực.
"Ông được coi là một trong những người gọi là ngũ lão, tức là khi nào triều đình, nhà chúa có công việc gì lớn thì đều mời ông về để ông tham gia bàn bạc và giúp cho chính sự. Đánh giá về Nguyễn Công Thái thì người ta cho rằng đấy là một con người mẫu mực, tài năng và cũng rất cương trực" - PGS.TS Sử học Nguyễn Đức Nhuệ cho biết.
Năm 1740, nịnh thần trong triều làm loạn, chúa Trịnh Giang bỏ chính sự, hoang dâm vô độ, đời sống nhân dân lầm than, đói khổ. Danh nhân Nguyễn Công Thái đã bí mật cùng một số đại thần đưa chúa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, thể hiện khí tiết của một nhà nho hết lòng thương dân. Theo Giáo sư Sử học Lê Văn Lan, một đời làm quan mà 5 lần về chí sĩ lại 5 lần gọi ra làm Tham tụng thì đấy là một cuộc đời rất đặc sắc. "Đưa được chúa Trịnh Doanh lên để ổn định tình hình chính trị, quản lý đất nước thì Nguyễn Công Thái đã chứng tỏ mình là một chính khách lão luyện, có tinh thần trung trinh và hoạt động chính trị thành công".

Danh nhân Nguyễn Công Thái làm quan hơn 40 năm, được phong đến chức Tham tụng (tương đương Tể tướng), phục vụ 4 đời vua, được sách “Bách Khoa Lịch triều hiến chương loại chí” xếp vào hàng những người phò tá có công lao tài đức thời Lê Trung Hưng ở các lĩnh vực văn hóa, chính trị, ngoại giao. Sử gia Phan Huy Chú đã nhận định về ông như sau: “Tính ông trong sạch, giản dị, thẳng thắn, có công to lập ngôi Chúa, được Ân vương rất tin cậy và quý trọng”. Dù ở bất kỳ cương vị nào, ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên làm trọng.

Được triều đình ban nhiều tước lộc nhưng danh nhân Nguyễn Công Thái lại sống cuộc đời thanh đạm cùng những người dân làng Kim Lủ. Đất quan lộc được vua, chúa ban tặng, ông đều đem chia cho dân làng, chỉ để lại cho gia đình mình một phần nhỏ, đủ dùng. Với những đóng góp to lớn cho đất nước thời bấy giờ, ông đã để lại cho con cháu dòng họ Nguyễn làng Kim Lủ niềm tự hào và tiếng thơm muôn đời.
Ngày nay, con cháu dòng họ Nguyễn của ông ở làng Kim Lủ vẫn phát huy truyền thống ông cha, học tập và cống hiến hết mình cho xã hội. Năm 2010, một con phố của Hà Nội đã mang tên ông như một sự tri ân của hậu thế đối với bậc danh nhân có công lớn với quê hương, đất nước./.