Lê Văn Hưu sinh năm Canh Dần (1230). Năm 1247, dưới triều Vua Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu đi thi và đỗ Bảng nhãn khi mới 17 tuổi. Đây là kỳ thi đầu tiên trong lịch sử dân tộc đặt ra danh hiệu Tam khôi và 3 vị Tam khôi ấy đều rất trẻ.
Theo các tài liệu còn lưu giữ, Lê Văn Hưu từng theo học thầy đồ họ Nguyễn làng Phúc Triền (Kẻ Bôn) và phần nào được truyền thụ kiến thức từ gia đình bên ngoại (họ Đỗ). Sau khi thi đậu Bảng nhãn trong khoa thi đầu tiên của nhà Trần, ông được giao nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như: Kiểm pháp quan, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện tu giám…
Theo nhà sử học Lê Văn Lan, từ nhỏ, Lê Văn Hưu đã là người rất thông minh và có nhiều giai thoại gắn với sự thông minh của ông. "Đây là người “Thông minh vốn sẵn tính trời” ta có thể dùng Kiều để nói về Lê Văn Hưu như thế. Khi còn nhỏ học ở làng, thầy giáo đã phải thốt lên câu: Con đã học hết chữ của thầy rồi, thầy không còn gì để dạy con nữa. Đặc biệt làng này có nghề rèn thì đã có 1 giai thoại về câu đối người thợ rèn ra cho Lê Văn Hưu: “Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở”. Lê Văn Hưu đối liền: “Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu Khôi nguyên”.

Lê Văn Hưu có sự nghiệp quan trường khá thuận lợi, trải qua 5 đời vua Trần với nhiều cương vị khác nhau, nhưng người đời sau vẫn nhớ đến ông với tư cách là một nhà sử học - người viết nên bộ Đại Việt sử kí đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Bộ sách gồm 30 quyển được hoàn thành vào năm 1272, ghi lại những sự kiện quan trọng chủ yếu suốt 15 thế kỷ của đất nước.
Hầu hết các sử gia nổi tiếng của Việt Nam thời phong kiến như: Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ, Hồ Sĩ Dương, Lê Hi, Nguyễn Quý Đức, Lê Quý Đôn... đều khẳng định Lê Văn Hưu là người mở đầu cho nền sử học chính thống ở nước ta.
"Đây là bộ Quốc sử đầu tiên và từ khi chúng ta lập nước cho đến lúc này thì chúng ta mới có được bộ Quốc sử như thế. Bộ Quốc sử được biên soạn trong bối cảnh lúc đó cả nước đang dồn tâm, dốc sức chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống xâm lược của đế chế Đại Nguyên. Có thể nói rằng, lúc này mà huy động được cao độ sức mạnh của toàn dân để làm được cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh để chống lại đại đế chế (mà nó quyết tâm tiêu diệt nước ta) thì bộ sử này đặc biệt có giá trị", GS.TS NGND Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam bày tỏ.
Theo Nhà sử học Lê Văn Lan, trong Đại Việt sử ký của Ngô Sĩ Liên hiện đang lưu hành vẫn còn 30 đoạn ghi rõ là “lời của Lê Văn Hưu”. Rất tiếc qua thời gian, bộ Quốc sử Đại Việt đầu tiên đến nay không còn nhưng vẫn còn có thể thấy thấp thoáng bộ Quốc sử này trong “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên - vị sử thần thời Lê.
"Như vậy cũng đã có một không gian, thời gian lịch sử rộng lớn nhưng cái căn cốt thì đây là sự mở đầu với phương pháp làm sử chính thống, mang dấu ấn của Lê Văn Hưu, trong đó những bình luận, việc sắp xếp các kỉ, chương, mục... là sáng tạo của Lê Văn Hưu - người làm sử sắc sảo. Sau Ngô Sĩ Liên thì các sử thần khác, đặc biệt là Ngô Thì Sĩ, tập thể các tác giả của bộ sử lớn Khâm định cương giám thư mục đều đánh giá cao sự đóng góp của Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu trong việc tiếp tục biên soạn lịch sử nước nhà".
Với những đóng góp của Lê Văn Hưu cho lịch sử nước nhà, trong “Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư” Ngô Sĩ Liên đã đánh giá về vị sử gia tài năng này như sau: “Lê Văn Hưu là người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi”.
Bằng tài năng, đức độ hơn người, Lê Văn Hưu đã ghi tên mình vào “bảng vàng” danh nhân văn hóa Việt Nam. Đồng thời, trở thành niềm tự hào của mảnh đất Thanh Hóa giàu truyền thống lịch sử, văn hóa./.