Đây là tác phẩm có quy mô độc bản, đạt hai kỷ lục Việt Nam: Tác phẩm tranh điêu khắc thủ công Vinh quy bái tổ trên gỗ liền khối lớn nhất Việt Nam và Tranh gỗ Vinh quy bái tổ có số lượng người nhiều nhất Việt Nam, đánh dấu nỗ lực sáng tạo và khát vọng tôn vinh truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Theo nghệ nhân Bùi Trọng Lăng, để hoàn thành tác phẩm tranh gỗ Vinh quy bái tổ có quy mô lớn nhất Việt Nam, xưởng tranh gỗ Bùi Gia (làng nghề mộc Ngọc Than, xã Kiều Phú, thành phố Hà Nội) do anh chủ trì, đã nhận được sự cố vấn, hỗ trợ chuyên môn của nhiều nhà khoa học và chuyên gia uy tín về lịch sử, mỹ thuật và văn hóa.
"Tác phẩm được hoàn thiện trong 27 tháng đục chạm thủ công, chưa kể 9 tháng sưu tầm tư liệu, nghiên cứu mẫu và phác thảo. Toàn bộ bức tranh khắc họa 348 nhân vật, cùng 41 cờ quạt, võng lọng, giáo mác, 55 con vật và 35 công trình kiến trúc tạo nên một tổng thể nghệ thuật phong phú về hình tượng, tinh xảo về kỹ thuật và giàu giá trị biểu tượng văn hóa. Đây là tiếng nói rõ ràng và thiết tha nhất cho khát vọng cả cuộc đời làm nghề của chúng tôi: thông qua tranh gỗ truyền tải, tôn vinh văn hóa nước nhà, ghi dấu những giá trị tinh hoa bất diệt trong dòng chảy lịch sử dân tộc".

Tác phẩm “Vinh quy bái tổ” được chế tác từ gỗ Cẩm quý hiếm, với kích thước dài 8m33, rộng 1m70, dày 16cm. Bức tranh tái hiện sinh động hành trình khoa bảng của một sĩ tử từ thuở nhỏ học với Thầy đồ, đến khi lều chõng đi thi Hương rồi trẩy kinh thi Hội, thi Đình, đề tên Bảng vàng và được Vua ban Ân Tứ trở về làng trong lễ Vinh quy.
Bố cục bức tranh tuân thủ nguyên tắc mỹ thuật “Khí vận sinh động”, khiến đoàn rước như hình ảnh Rồng uốn lượn – biểu tượng gắn liền với tên gọi Thăng Long – Hà Nội. Cảnh sắc và nhân vật được khắc họa công phu dựa theo tiểu thuyết Lều Chõng của nhà văn Ngô Tất Tố, với sự xuất hiện đủ tầng lớp xã hội xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương - Ngư, Tiều, Canh, Mục. Đặc biệt, hình ảnh Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Khuê Văn Các, cổng làng, cây đa, giếng nước, sân đình… hòa quyện trong không khí lễ hội rộn ràng, tạo nên một trường đoạn sử thi bằng gỗ sống động.

Theo TS. Lê Xuân Kiêu - Giám đốc Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trong tiến trình hình thành và phát triển của nền giáo dục khoa cử Việt Nam, các triều đại quân chủ đã tổ chức 184 khoa thi, tuyển chọn 2.785 vị đỗ Đại khoa, trong số đó có 56 Trạng nguyên. Người đỗ Đại khoa được triều đình ban cờ, mũ, cân, đai, lọng, được dự yến, cưỡi ngựa dạo phố trong kinh thành và được tổ chức lễ rước về quê bái yết tổ tiên, thể hiện sự tôn vinh đặc biệt của triều đình đối với bậc Đại khoa cũng như niềm tự hào của quê hương, dòng tộc.
Không chỉ là niềm vinh dự của cá nhân đỗ đạt, Lễ Vinh quy bái tổ còn là biểu tượng của đạo lý Việt Nam: Tôn sư trọng đạo, hiếu lễ, đoàn kết làng xã, khát vọng phụng sự đất nước, tôn vinh sự học, khuyến khích hiền tài đem sức mình cống hiến cho quốc gia… Trong dân gian, hình ảnh “Vinh quy bái tổ” cũng được coi là tấm gương sáng để tôn quý sự học và trân quý người học.

Việc đặt tác phẩm tranh gỗ “Vinh quy bái tổ” tại Nhà Thái Học, Văn Miếu – Quốc Tử Giám mang ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Đây là không gian giáo dục – văn hóa quan trọng bậc nhất của Thăng Long – Hà Nội, nơi tôn vinh hiền tài, đề cao sự học và lưu giữ truyền thống của đạo Học Việt Nam. Tác phẩm đã trở thành điểm nhấn trong không gian Tiền Đường nhà Thái Học, giúp công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu rõ hơn đạo lý hiếu học, tôn sư trọng đạo và khát vọng phụng sự đất nước.
Sự hiện diện của bức tranh tại Nhà Thái Học vì vậy là lời nhắc nhở thiết tha về giá trị của trí tuệ Việt Nam. Đồng thời khẳng định sứ mệnh của Văn Miếu – Quốc Tử Giám trong việc gìn giữ, phát huy di sản văn hóa, khuyến khích học tập, khơi dậy tinh thần hiếu học, hun đúc nhân tài cho quốc gia.
“Vinh quy” nghĩa là rước người đỗ đạt trở về nguyên quán, “bái tổ” là lễ cáo yết tổ tiên.
Trong hơn 800 năm tồn tại của khoa cử Nho học Việt Nam, kỳ thi Tiến sĩ là đỉnh cao trong quá trình tuyển chọn nhân tài phụng sự đất nước.
Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu, đắp tượng các Tiên Thánh, Tiên Hiền và cho hoàng tử đến đây học tập, mở đầu cho truyền thống trọng đạo của dân tộc.
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Nho học tam trường kén chọn Minh Kinh bác học, đặt nền móng cho chế độ khoa cử nước nhà. Năm sau, 1076, Quốc Tử Giám được thành lập, trường Quốc học đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dành cho con vua, hoàng tộc và quan lại.
Đến năm 1253, vua Trần Thái Tông mở rộng Quốc Tử Giám, cho phép con em dân thường có học lực xuất sắc được dự học, thể hiện tư tưởng giáo dục tiến bộ, chính sách trọng dụng nhân tài và mở rộng cơ hội học tập cho toàn xã hội.