Chuyển đổi số trong giáo dục đại học là yêu cầu tất yếu khi thực hiện Cách mạng công nghiệp 4.0.
Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong giáo dục như Quyết định số 131/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặc biệt Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 71/NQ-TW về đột phá phát triển giáo dục đào tạo đã đặt ra yêu cầu cấp thiết chuyển đổi số trong giáo dục đại học.
Hiện nay, hầu hết các trường đại học trên toàn quốc đã bắt đầu triển khai những mô hình chuyển đổi số phù hợp với đặc thù và năng lực của từng cơ sở, thể hiện qua ba nhóm hoạt động chính: số hóa công tác quản lý, đổi mới phương pháp giảng dạy và phát triển hạ tầng công nghệ. Nhiều trường đang triển khai hệ thống quản lý học tập (LMS) và các phần mềm hỗ trợ học trực tuyến.
Trường Đại học Công nghê, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã thành lập Trung tâm Đại học số vào tháng 11 năm 2024. Trung tâm đảm nhiệm 2 nội dung chính: đảm bảo hệ thống thông tin và thực hiện nhiệm vụ chuyển đổ số các hoạt động của trường.
Kể lại những ngày đầu triển khai quản trị các hoạt động của trường theo mô hình mới, thạc sỹ Đỗ Hoàng Kiên, Giám đốc Trung tâm Đại học số trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội cho biết trước đó các khoa, ngành có hệ thống thông tin riêng, không cùng hệ thống chung, thiếu đồng bộ nên để nắm thông tin toàn trường, đưa ra quyết định lại phải tập hợp thông tin và rất mất thời gian, từ lãnh đạo đến cán bộ nhân viên và giảng viên, sinh viên trong trường không tránh khỏi bức xúc. Đó chính là lý do trường ĐH Công nghệ ĐHQG Hà Nội quyết định triển khai ngay mô hình quản trị đại học số Canvas LMS.

Lợi ích có thể nhận thấy ngay của hệ thống Canvas LMS là thông tin chính xác và cập nhật kịp thời, giúp cán bộ lãnh đạo các đơn vị có thể sớm đưa ra quyết sách phù hợp. Ví dụ trong công tác tuyển sinh, từ tình hình tuyển sinh của các năm trước, những đối tượng sinh viên nào vào trường nhiều, từ điểm đầu vào của sinh viên và quá trình học của sinh viên như thế nào để có đầu ra chất lượng tốt, từ đó đưa ra điểm chuẩn đầu vào tốt và nhà trường sẽ lựa chọn phương pháp tuyển sinh phù hợp với mục tiêu chất lượng của nhà trường.
Chưa đầy 10 tháng từ khi triển khai, hệ thống quản trị mới đã nhận được sự hài lòng của các giảng viên và sinh viên. Bản thân sinh viên có môi trường thực hành và tự đánh giá được mức độ hiệu quả của mình, từ đấy quyết định và thúc đẩy quá trình học tập của mình từ thời gian, số môn đến điểm số.
Việc thực hiện quản trị Đại học số đã giải quyết được một cách triệt để cho hệ thống đăng ký học phần - vấn đề tồn tại trước đây đồng thời đáp ứng được yêu cầu cá nhân hóa chương trình học của mỗi sinh viên trong cả quá trình học tại trường và đưa ra những gợi ý tư vấn phù hợp giúp mỗi em cải thiện lộ trình chất lượng học tập.
Nhà trường cũng đưa ra những quyết sách nhanh chóng kịp thời và giảng viên cũng chủ động trong việc giảng dạy, tiến đến tự chủ hoàn toàn trong công việc của mình.

"Hệ thống cũ thường phải làm thủ công, khi xếp lịch xong không biết nhu cầu sinh viên học thế nào, nhiều khi lệch pha giữa 2 bên vì sinh viên muốn học môn này phòng đào tạo lại mở lớp môn học khác. Nhưng với công nghệ mới, ngoài việc xếp lịch học trong thời gian 3 năm hay 5 năm còn có thể gợi ý xu hướng sinh viên lựa chọn học môn nào nhiều hơn, từ đó khớp nhu cầu giữa 2 bên", Ths. Lê Thị Phương Thoa, Phó trưởng phòng đào tạo trường ĐH Công nghệ chia sẻ.
Hệ thống còn tạo động lực, thái độ làm việc tích cực cho cán bộ, giảng viên và sinh viên. Trên hệ thống tính minh bạch được đề cao, mỗi cán bộ phải thay đổi trạng thái để làm tốt công việc của mình để ra sản phẩm. Chỉ cần một người chậm trễ lập tức chuỗi dữ liệu bị đứt gãy hiện ra thể hiện vị trí người đó không hoàn thành. Căn cứ vào đó, cán bộ quản lý cũng có sơ sở đánh giá nhân viên dễ dàng hơn, khách quan hơn.
TS Nguyễn Hữu Tiệp, giảng viên khoa Vật lý kỹ thuật và Công nghệ na nô trường ĐH Công nghệ cho biết trong quá trình giảng dạy có rất nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau, nền tảng số cho phép triển khai các phương pháp ấy dễ dàng hơn.

GS.TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng trường ĐH Công nghệ Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ: Là một cơ sở đào tạo lĩnh vực công nghệ, việc ứng dụng mô hình quản trị Đại học số là điều đương nhiên và ĐH Công nghệ quyết tâm thực hiện. Trong quá trình triển khai cũng gặp không ít khó khăn, va chạm và có những người phải ra khỏi guồng máy vì không đáp ứng được những yêu cầu mới.
Tuy nhiên sau khi vận hành qui trình ngày càng được hoàn thiện ai cũng nhận thấy rất rõ hiệu quả mà ứng dụng này đem lại từ việc giảm được nhân lực quản lý tới việc công khai, minh bạch các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu tạo cho giảng viên, sinh viên và phụ huynh có động lực phấn đấu và tin tưởng vào nhà trường.
"Nhiều sinh viên đã tốt nghiệp trước thời hạn một năm, chính điều đó thể hiện các bạn sinh viên đã tăng năng suất 25% so với trước đây", GS.TS Chử Đức Trình chia sẻ.

Cũng theo GS.TS Chử Đức Trình: Thời gian qua, các trường Đại học đã triển khai thực hiện Nghị quyết 57 trên 2 lĩnh vực: Triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học để có những ứng dụng vào cuộc sống, nhiệm vụ thứ 2 rất quan trọng là đưa KHCN của chính các trường ứng dụng vào hoạt động của đơn vị, đưa vào quản trị ĐH, trong giảng dạy và nghiên cứu với tinh thần tăng năng suất lao động trong chính các trường ĐH.
“Thời gian tới nếu các trường Đại học quyết liệt đưa Nghị quyết 57 vào trường mình, đưa tư duy Nghị quyết 57 lan tỏa vào trong xã hội tôi tin chúng ta sẽ bứt phá, tôi tin kỷ nguyên mới của chúng ta sẽ diễn ra trong thời gian rất ngắn”- GS.TS Chử Đức Trình khẳng định.