Chiến dịch Tây Nguyên còn có mật danh là Chiến dịch 275, là chiến dịch quan trọng mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Do vị trí địa lý, địa chính trị, địa chiến lược, địa quân sự cực kỳ quan trọng nên phía địch luôn đặc biệt quan tâm đến địa bàn chiến lược quan trọng Tây Nguyên. Về phía ta, Bộ Chính trị xác định Tây Nguyên là điểm then chốt, nơi cần phải huy động sức mạnh tổng lực cả về vật chất và tinh thần, vì vậy vào đầu năm 1975, nhận thấy thời cơ giải phóng đã chín muồi, Bộ Chính trị đã quyết định phát động chiến dịch Tây Nguyên. Tháng 2/1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Quân ủy Trung ương, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh và Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy.

Một loạt các sư đoàn chủ lực đã được điều động tới khu vực này, bao gồm sư đoàn 320, 316, 968 và 10, cùng với sự phối hợp của nhiều binh chủng khác như pháo binh, công binh và xe tăng thiết giáp.
Hiện thực hóa kế hoạch Chiến dịch Tây Nguyên - “sản phẩm của cuộc đấu trí” đầy mưu lược, sáng tạo và quyết đoán của những bộ óc mẫn tiệp và dạn dày kinh nghiệm trận mạc cả ở nơi chiến trường máu lửa và tại các cơ quan chiến lược ở hậu phương miền Bắc, sau thời gian khẩn trương làm công tác chuẩn bị mọi mặt, Chiến dịch tiến công giải phóng Tây Nguyên chính thức mở màn.
Để tạo điều kiện đánh trận then chốt quyết định tại Buôn Ma Thuột, ngày 4-3, ta đánh cắt các trục lộ 19 và 21, tạo thế cô lập Tây Nguyên với địa bàn đồng bằng Khu 5; tổ chức nghi binh lừa địch ở Pleiku, Kon Tum.
Sau khi đánh chiếm Thuần Mẫn (ngày 8-3), cắt đường 14 chiếm Đức Lập, núi Nưa (ngày 9-3), ta tập trung lực lượng ưu thế tiến công thị xã Buôn Ma Thuột (ngày 10-3), địch hoàn toàn bị bất ngờ cả về chiến dịch cũng như chiến lược.
Trên các hướng chiến trường phối hợp, ta đẩy mạnh tiến công uy hiếp địch ở đồng bằng Trị-Thiên, vùng giáp ranh Quảng Nam, Quảng Ngãi (giải phóng các huyện Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà, Trà Bồng, Bình Sơn, Sơn Tịnh...).
Nhiều địa bàn chiến lược xung quanh Sài Gòn như Dầu Tiếng, suối Ông Hùng, Cầu Khởi ở phía Tây Bắc, Định Quán, Võ Đắc ở phía Đông Bắc, Xuân Lộc... bị ta uy hiếp mạnh.
Địch cũng dồn lực lượng quy mô cấp sư đoàn tổ chức phản kích trên các trọng điểm chiến lược như Tiên Phước (Khu 5), Dầu Tiếng (Đông Nam Bộ)... nhưng đều bị thất bại.

Chiến thắng đầu tiên của quân ta trong chiến dịch Tây Nguyên là chiến thắng Đức Lập. Quận lỵ Đức Lập, tỉnh Quảng Đức cũ, nay là huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự, kinh tế, chính trị, khống chế Nam Tây Nguyên, Đông Nam bộ và vùng biên giới tiếp giáp Campuchia. Chiến thắng Đức Lập đã tạo hành lang cho các lực lượng tiến công vào hướng Nam, bảo đảm bất ngờ cao nhất cho trận đánh then chốt quyết định - tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột.
“Chiến thắng Đức Lập là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố trong đó có vai trò cực kỳ quan trọng của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của trận đánh Đức Lập trong thế trận chiến dịch Tây Nguyên năm 1975”. Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Sự, nguyên Chủ nhiệm khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị nhận định.
Từ sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, nghệ thuật lãnh đạo chiến lược, đến sự sáng tạo trong chiến thuật tác chiến của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Một trong những điểm nhấn quan trọng được các chuyên gia nhấn mạnh là nghệ thuật nghi binh chiến lược. Theo Đại tá, PGS.TS Hoàng Xuân Nhiên, Giảng viên Khoa Chiến lược - Học viện Quốc phòng, Chiến dịch Tây Nguyên giành thắng lợi có dấu ấn đặc biệt từ nghệ thuật đánh nghi binh, kìm kẹp địch ở Bắc Tây Nguyên để đánh địch ở phía Nam, cụ thể là cứ điểm Đức Lập và Buôn Ma Thuột rồi từng bước giành chiến thắng cả chiến dịch.
“Ta đã nghi binh ở Pleiku để tập trung sức mạnh ở phía Nam tức Buôn Ma Thuột, quân chủ lực dồn đánh đột phá Buôn Ma Thuột. Chỉ khi ta kìm được Sư 23 của Nguỵ yên vị ở Pleiku thì mới đánh được Buôn Ma Thuột thành công. Điều này cho thấy, trong chiến dịch Tây Nguyên Xuân 1975, Quân đội ta đã tiến hành cả một giai đoạn nghi binh tạo thế trận thuận lợi, sáng tạo và chỉ có như vậy ta mới đánh thắng Nguỵ trên chiến trường Tây Nguyên và cả trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Đại tá, PGS.TS Hoàng Xuân Nhiên phân tích.
Diễn ra từ ngày 4-3 đến 24-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên ta đã tiêu diệt, đập tan toàn bộ tập đoàn ngụy quân Sài Gòn (thuộc Quân đoàn 2, Quân khu 2) trên chiến trường Tây Nguyên, một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng.
Từ đó, chớp thời cơ chủ động phát triển tiến công xuống vùng ven biển Trung Trung Bộ, cùng lực lượng vũ trang địa phương giải phóng hoàn toàn 3 tỉnh đồng bằng Khu 5: Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa (3-4-1975).

Đại tá Đỗ Văn Sơn, nguyên trưởng phòng chiến trường -tổng hợp, Cục Tác chiến, Bộ tổng tham mưu cho rằng, với chiến lược táo bạo, linh hoạt, tận dụng thời cơ, đánh vào điểm yếu của địch, chúng ta đã giành thắng lợi nhanh chóng và triệt để. Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên là dấu mốc quan trọng trong lịch sử, đồng thời cũng để lại những bài học lớn. “Tây Nguyên luôn luôn là một trong những địa bàn chiến lược trọng yếu nhất của đất nước ta trong mọi thời đại. Vì vậy, trong thời bình, chúng ta cần phải chú trọng xây dựng Tây Nguyên mạnh về kinh tế quốc phòng, an ninh. Không bao giờ được lãng quên thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và trong thời bình cần phải đặc biệt coi trọng vị thế chiến lược của Tây Nguyên để tập trung đầu tư xây dựng phát triển Tây Nguyên ngang với tầm vóc lịch sử và vị trí chiến lược của nó.
Chiến dịch Tây Nguyên 1975 không chỉ là chiến công lừng lẫy mà còn là một bài học về chiến thuật quân sự tài tình, sáng tạo và đầy bất ngờ. Với mục tiêu giải phóng miền Nam, chiến dịch đã phát huy tối đa nghệ thuật quân sự của quân và dân Việt Nam. Từ kế hoạch nghi binh hoàn hảo đến sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng, chiến dịch Tây Nguyên đã làm chấn động cả giới quân sự quốc tế, tạo ra bước ngoặt lớn, góp phần vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước.
Chiến dịch Tây Nguyên mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là minh chứng cho sức mạnh của tinh thần đoàn kết và ý chí quật cường.