Việt Nam có đường bờ biển dài, nguồn gió dồi dào và vùng đáy biển tương đối nông, phù hợp cho việc dựng hệ thống móng cố định. Nghị quyết số 139/2024/QH15 về quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã chỉ ra khâu đột phá “Phát triển nhanh và bền vững các loại năng lượng sạch, xanh từ biển, ưu tiên phát triển điện gió ngoài khơi, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, quốc phòng, an ninh”.

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất khu vực châu Á, nhờ sở hữu đường bờ biển dài hơn 3.200 km và vùng biển có tốc độ gió trung bình từ 6,5–9,5 m/s, đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển các dự án điện gió quy mô lớn. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), tiềm năng kỹ thuật của điện gió ngoài khơi Việt Nam có thể đạt khoảng 600 GW, trong đó trên 60 GW có thể khai thác hiệu quả về kinh tế vào năm 2050 nếu có chính sách và hạ tầng phù hợp.

Khu vực có tiềm năng cao nhất là vịnh Bắc Bộ, vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ – nơi có độ sâu phù hợp cho cả turbine gió cố định và nổi. Các tỉnh như Lâm Đồng, Cần Thơ, Cà Mau đang trở thành điểm nóng đầu tư, với hàng loạt dự án được đề xuất bởi các tập đoàn trong và ngoài nước. Hiện nay, Việt Nam có 17 dự án điện gió ven bờ đã đi vào vận hành thương mại với tổng công suất đạt hơn 760 MW, chiếm 19% tổng công suất điện gió của cả nước (3.980 MW). Ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, “phát triển điện gió và điện gió ngoài khơi là một trong sáu ngành kinh tế đã được xác định ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045, tiếp tục khẳng định chủ trương cuả Đảng và Nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo trong dó có điện gió.”

Các dự án điện gió ngoài khơi thường được phát triển với quy mô và công suất lớn hơn nhiều so với các dự án năng lượng tái tạo khác và cần được kết nối với hệ thống truyền tải điện quốc gia ở cấp điện áp 220 kV hoặc 500 kV. Các dự án này có thể có hệ số công suất tương đương với các nhà máy nhiệt điện nên cần phát triển hệ thống lưới điện và cơ sở hạ tầng tương tự. Sự chậm trễ trong xây dựng và kết nối lưới điện có thể trở thành rủi ro lớn đối với nhà phát triển, khiến họ trì hoãn cam kết cho đến khi có thêm sự chắc chắn trong quá trình thực hiện. Theo phân tích của ông Dư Văn Toán, Hội Năng lượng Tái tạo, để tháo gỡ khó khăn và phát triển các dự án điện gió ngoài khơi, chúng ta cần gỡ từ chính sách và cần có lộ trình. Để phát triển điện gió ngoài khơi cần có lộ trình, kế hoạch chi tiết phát triển dài hạn và đặc biệt là điện gió ngoài khơi liên quan đến rất nhiều bộ ngành và nhất là không gian biển. “Nếu chúng ta không bắt đầu, chúng ta sẽ không thể hình thành ngành công nghiệp tỷ đô” – ông Toán nhấn mạnh.

Năng lượng gió ngoài khơi là một nguồn năng lượng tái tạo có triển vọng phát triển, có thể lắp đặt các trang trại điện gió ngoài khơi trên vùng biển rộng lớn. Mặc dù cơ hội lớn nhưng phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam đang đối diện những bài toán khó như vốn, trình tự đầu tư, đấu nối hệ thống truyền tải điện. Các dự án điện gió khó huy động nguồn vốn lớn do tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ khiến cho dự án trải qua nhiều quy trình và trình tự thủ tục đầu tư… Đây cũng là lý do khiến cho hàng chục dự án điện gió được xây dựng, vận hành trong thời gian qua đều là những dự án trên đất liền, hoặc gần bờ. Ông Henrik Scheinemann, đồng giám đốc điều hành của tập đoàn Copenhagen Offshore Partners gợi ý Việt Nam nên tập trung vào việc khởi động ngành năng lượng tái tạo đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ các thị trường đã phát triển và có thành tích tốt để chọn cho mình một mô hình điện gió ngoài khơi phù hợp với nhu cầu và kỹ năng của đất nước.

Phát triển điện gió ngoài khơi không chỉ giúp Việt Nam đa dạng hóa nguồn năng lượng, giảm phụ thuộc vào than và khí, mà còn góp phần thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050. Ngoài ra, lĩnh vực này còn mở ra chuỗi giá trị công nghiệp phụ trợ, bao gồm sản xuất turbine, dịch vụ hậu cần, cảng biển chuyên dụng và đào tạo nhân lực kỹ thuật cao. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế đấu thầu, quy hoạch không gian biển và hạ tầng truyền tải để khai thác tối đa tiềm năng. Với tầm nhìn chiến lược và sự hợp tác quốc tế sâu rộng, điện gió ngoài khơi có thể trở thành trụ cột của chuyển dịch năng lượng xanh và kinh tế biển bền vững trong tương lai. Theo ông Nguyễn Hoàng Long, Thứ trưởng Bộ Công thương, phát triển điện gió ngoài khơi và chuỗi công nghiệp điện gió ngoài khơi sẽ không chỉ là các dự án điện gió ngoài khơi mà sẽ là lao động xanh, sẽ là giá trị gia tăng xanh, sẽ là sự lan tỏa đến các khu công nghiệp xanh cho việc thu hút đầu tư cho các lĩnh vực khác. “Đấy là yếu tố vô cùng quan trọng đế đưa nền kinh tế nước ta vững bước tiến lên và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào 2050.” – ông Long khẳng định.

Với mục tiêu phát triển nền kinh tế xanh, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, Việt Nam đang đẩy mạnh việc chuyển đổi ngành năng lượng, phát triển các nguồn năng lượng tái tạo và giảm sử dụng các nguồn năng lượng hóa thạch. Đây là xu hướng tất yếu để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển bền vững./.