Việt Nam có nhiều lợi thế nổi bật để phát triển kinh tế biển bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Trước hết, nước ta sở hữu đường bờ biển dài 3.260 km, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ và khoảng 1 triệu km² vùng đặc quyền kinh tế trên biển, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đa dạng các loại hình kinh tế biển như khai thác – nuôi trồng thủy sản, du lịch, năng lượng tái tạo, vận tải và dịch vụ hàng hải. Biển Đông còn là nơi sinh sống của hàng nghìn loài hải sản nhiệt đới, trong đó nhiều loài có giá trị kinh tế cao như cá mú, cá chim, tôm hùm, bào ngư, sò, ngao, hàu… Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam hướng tới mục tiêu xuất khẩu hải sản chất lượng cao, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn như phân tích của PGS Nguyễn Chu Hồi, Chủ tịch Hội bảo vệ Môi trường biển. Kinh tế biển xanh về bản chất là giải quyết tốt các vấn đề dựa trên nền tảng của các vốn tự nhiên biển, thực chất là lấy môi trường và tài nguyên biển là hạt nhân của sự phát triển. “Nếu như vấn đề tài nguyên và môi trường không còn hoặc bị suy thoái, chất lượng không bảo đảm thì cũng không có kinh tế biển xanh.” - PGS Nguyễn Chu Hồi chia sẻ.

Trong 156 quốc gia có biển trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 27 và là nước có diện tích ven biển lớn trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam là một trong 12 quốc gia có vịnh biển đẹp nhất thế giới với vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang. Một số bãi tắm của Việt Nam cũng đã lọt vào danh sách những điểm đến quyến rũ nhất hành tinh. Bên cạnh đó, những di tích lịch sử-văn hóa, những phong tục tập quán, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực… đậm sắc màu miền biển cũng trở thành lợi thế để phát triển bền vững du lịch biển, đảo; tạo lợi thế cạnh tranh cho du lịch Việt Nam trên bản đồ du lịch quốc tế. Theo tiến sĩ Nguyễn Lê Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo, du lịch trong kinh tế biển luôn luôn là giải pháp xanh, giải pháp rất được ưu tiên phát triển vì nó thay bằng việc mình xây dựng và khai thác cơ sở hạ tầng thì nó sẽ gây ra rất nhiều tác động. “Có thể là những tác động trong sức tải của môi trường biển, của hệ thống tài nguyên và môi trường thì du lịch là một trong những giải pháp thay thế và chúng ta cũng đã kỳ vọng vào phát triển du lịch” - tiến sĩ Nguyễn Lê Tuấn khẳng định.

Nước ta có lợi thế trong phát triển kinh tế hàng hải và cảng biển với bờ biển dài, nhiều vịnh và khoảng hơn 114 cửa sông lớn, nhỏ đổ ra biển. Dải ven biển tập trung khoảng 50% đô thị lớn, 18 khu kinh tế ven biển và khoảng 300 khu công nghiệp, khu chế xuất và 4 vùng kinh tế trọng điểm. Không những thế, vùng ven biển nước ta lại nằm gần các tuyến hàng hải quốc tế và khu vực cắt qua Biển Đông, một vị trí chiến lược trên trục đường vận tải biển quốc tế để trung chuyển hàng hoá giữa châu Á và các châu lục khác. Trung bình mỗi ngày có 250 – 300 lượt tàu biển vận chuyển qua Biển Đông. Hệ thống đường giao thông ven biển cũng được nước ta liên tục phát triển trong thời gian vừa qua. Phần lớn các thành phố, tỉnh ven biển có sân bay, có tuyến đường sắt Bắc – Nam, hệ thống đường bộ xuyên liên tỉnh, liên vùng xuyên suốt, trong đó, một số tuyến đường cao tốc đồng bộ đã dần thành hình. Đây là những tiền đề cho phát triển cảng biển - cửa ngõ giao thương và hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới và tạo thuận lợi cho liên kết vùng trong phát triển kinh tế biển nước ta. Ngày 28/6/2024, Quốc hội đã ban hành nghị quyết số 139/2024/QH15 về quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đưa ra định hướng phát triển cho các ngành kinh tế biển, nhất là các ngành kinh tế biển mới. Theo ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các địa phương có biển hoàn toàn có điều kiện phát triển kinh tế biển nếu biết tận dụng hiệu quả vùng không gian này. Vấn đề là làm sao để cho chúng ta sử dụng tối ưu hóa không gian biển và kết nối không gian biển với không gian đất liền hiệu quả. Việc sử dụng không gian như thế này sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển.

Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam tập trung vào xây dựng kinh tế biển xanh, kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu ô nhiễm và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các ngành ưu tiên là du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, năng lượng tái tạo, nuôi trồng và khai thác hải sản, khai thác dầu khí. Để làm được điều này đòi hỏi sự tham gia của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân và bao gồm các giải pháp về môi trường, công nghệ, cơ sở hạ tầng và an ninh biển. Nếu làm được điều này, Việt Nam có cơ hội xây dựng mô hình kinh tế biển hiện đại, hiệu quả, hài hòa giữa lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường — nền tảng cho sự phát triển bền vững lâu dài./.