Khi người dùng "yếu" đối mặt công nghệ "mạnh"
Trong kỷ nguyên số, Trí tuệ nhân tạo (AI) đã trở thành một xu hướng tất yếu tác động đến mọi lĩnh vực đời sống. Sự xuất hiện của AI đã định hình lại cách chúng ta sống, làm việc và tương tác. Có thể thấy, tác động của AI đối với xã hội hiện đại là vô cùng to lớn, đặc biệt là đối với ngành giáo dục, khi mà việc “sử dụng” đang dần trở thành “lạm dụng” - một vấn đề nóng bỏng và nan giải, đặt ra bài toán cấp bách cho các nhà nghiên cứu và quản lý.
Trong Diễn đàn giáo dục của kênh VOV2 - Đài Tiếng nói Việt Nam (ngày 8/10), PGS.TS Đỗ Văn Hùng, Giám đốc chương trình nâng cao năng lực ứng dụng AI trường ĐH KHXHVNV (ĐH Quốc gia Hà Nội), đã đưa ra nhận định thẳng thắn: "Chúng ta không lo AI mạnh, mà cái chúng ta lo là người dùng yếu. Lo ngại không nằm ở công nghệ mà nằm ở năng lực sử dụng AI có trách nhiệm, có hiểu biết và có phản biện".

Theo PGS.TS Đỗ Văn Hùng, khi AI trở nên quá quen thuộc trong từng giảng đường thì việc dạy và học hiện nay đang phải đối mặt với ba nguy cơ lớn: Thứ nhất là phụ thuộc về tư duy, năng lực tư duy là năng lực quan trọng, đặc biệt là tư duy phản biện, đôi khi sinh viên sẽ xem AI như là cái phao mà không chịu suy nghĩ. "Nếu không có năng lực tư duy phản biện, không có sáng tạo thì chúng ta sẽ mất bản chất của giáo dục”.
Hai là mất liêm chính học thuật, làm cho những chuẩn mực trung thực trong học thuật sẽ bị ảnh hưởng. Thứ ba là, tất cả những hệ thống AI hiện nay không có trách nhiệm giải trình, nó như một hộp đen, khi chúng ta có một câu hỏi, nó chỉ trả lời, không giải trình nó lấy nguồn từ đâu, suy nghĩ thế nào. Chúng ta cứ đưa dữ liệu cá nhân, dữ liệu của cơ quan đơn vị lên điều này có thể dẫn đến nguy cơ vi phạm bảo mật thông tin và các vấn đề về đạo đức cá nhân.
Theo PGS.TS Đỗ Văn Hùng, phát triển năng lực tư duy phản biện, sự nhạy bén, sáng tạo vốn là xương sống của giáo dục, nay lại đang có nguy cơ bị thui chột. “Nếu không kiểm soát tốt, thì chúng ta sẽ tạo ra một cái thế hệ "AI dependent" - phụ thuộc vào AI. Không chỉ dừng lại là nguy cơ đạo đức học đường, mà nó còn là tăng nguy cơ về năng lực quốc gia kỷ nguyên số. Tức là chúng ta chỉ tạo ra con người mà chỉ biết dùng kỹ thuật, mà không có tư duy, ông Hùng lo ngại.
Thực trạng này được phản ánh rõ nét qua chia sẻ của nhiều sinh viên như Đào Quốc Bình, sinh viên ở Hà Nội: "Khi mà mình gặp một vấn đề khó nào đó thì mình sẽ copy trực tiếp, copy toàn bộ sau đó chỉnh sửa một số từ cho nó không giống AI cho lắm". Lời thú nhận vô tư này là một hồi chuông cảnh tỉnh về một thế hệ đang có nguy cơ chỉ biết thao tác công nghệ mà khuyết thiếu tri thức nền tảng.
Ranh giới giữa lạm dụng và hỗ trợ thực ra rất mong manh. Nếu phó mặc cho AI viết trọn vẹn một bài luận mà không kiểm chứng, chúng ta đã vô tình nhường vai 'nhạc trưởng' cho nó và biến mình thành khán giả. Ngược lại, ta sẽ là một 'kỹ sư' thực thụ nếu AI được sử dụng như một trợ lý đắc lực để tìm kiếm dữ liệu, khơi nguồn cảm hứng hay hoàn thiện câu chữ.
Ra mắt khung năng lực AI: "Kim chỉ nam" trong kỷ nguyên số
TS. Tôn Quang Cường, chủ nhiệm khoa Công nghệ Giáo dục, Trường ĐH Giáo dục (ĐHQGHN) chia sẻ, các chương trình đào tạo hiện nay phải thúc đẩy tư duy phản biện và năng lực kiểm chứng. Người học phải biết đặt câu hỏi nghi ngờ với kết quả AI đưa ra: Liệu thông tin này có chính xác không? Nguồn của nó từ đâu? Lập luận này có thiên vị không?
Những yêu cầu về năng lực tư duy trong thời đại số là hoàn toàn xác đáng và cần thiết, nhưng làm thế nào để trang bị chúng một cách đồng bộ và hiệu quả? Điều này đặt ra bài toán cấp thiết phải có một "kim chỉ nam" chung, một bộ tiêu chuẩn làm cơ sở cho việc dạy và học.

Theo TS Tôn Quang Cường: trí tuệ nhân tạo là "một vấn đề đang rất là nóng bỏng". Chương trình đào tạo "sẽ phải phát triển cân bằng giữa năng lực thích ứng và năng lực số". Người học phải được trang bị "một cái tinh thần tư duy phản biện và cái khả năng đánh giá và xác thực và sử dụng kết quả của AI một cách có trách nhiệm". Bởi vậy, cấp thiết phải có khung năng lực "đặt ra cho chúng ta gợi ý và phương hướng triển khai trong quá trình giáo dục trong thời gian tới".
Đi tiên phong trong lĩnh vực này, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN) đã cho ra mắt "Khung năng lực AI dành cho sinh viên" – một bước đi chiến lược và kịp thời. PGS.TS Đỗ Văn Hùng chia sẻ, mục tiêu của khung năng lực này không hướng tới dạy sinh viên thành kỹ sư AI mà dạy họ thành công dân số, một cách thông minh trong kỷ nguyên AI.

Với cấu trúc đa tầng, khung năng lực này xoay quanh các trụ cột cốt lõi, bắt đầu từ nền tảng tư duy lấy con người làm trung tâm nhằm đảm bảo công nghệ không làm xói mòn tính nhân văn và sự sáng tạo. Ông Đỗ Văn Hùng chia sẻ “Chúng tôi mất 2 năm với hỗ trợ chuyên môn của tập đoàn META, tham khảo những khung năng lực AI của UNESCO của châu Âu, khảo sát hơn 1.000 sinh viên và hơn 250 giảng viên ở tất cả các lĩnh vực khác nhau để đưa ra được 6 miền năng lực”.

Song hành với đó là yêu cầu về việc sử dụng AI có đạo đức và trách nhiệm thông qua việc hiểu rõ giới hạn của công nghệ. Khung năng lực còn trang bị các kỹ năng thực tiễn như ứng dụng AI cho nghề nghiệp và cao hơn là thiết kế, phát triển các hệ thống AI. Mỗi năng lực này đều được chi tiết hóa theo lộ trình bốn cấp độ từ thành thạo, thông thạo, chuyên sâu đến làm chủ, tạo thành một tấm bản đồ linh hoạt giúp người học vạch ra con đường phát triển của riêng mình.
Kỳ vọng về một thế hệ công dân số chủ động
Không chỉ là một bộ quy tắc, Khung năng lực AI được các nhà nghiên cứu gửi gắm nhiều kỳ vọng lớn lao. Ông Đỗ Văn Hùng chia sẻ: “Thứ nhất là giúp sinh viên làm chủ công nghệ, hiểu, đánh giá, ứng dụng và sáng tạo với AI” khung năng lực được kỳ vọng sẽ chuyển đổi vai trò của người học từ bị động thành chủ động, biến AI thành một "người đồng sáng tạo", một “trợ lý” đắc lực. “Tiếp theo là giữ vững tính nhân tính, đó là sự trung trực sáng tạo và nhân văn trong môi trường số.
Các chuyên gia cũng bày tỏ mong muốn sẵn sàng chia sẻ khung năng lực AI này với tất cả những đơn vị đào tạo trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam để cùng nhau đồng hành và đặc biệt là kiến tạo, xây dựng một thế hệ sinh viên thật sự là năng động, chủ động và đồng kiến tạo cùng với AI.
AI không phải là mối đe dọa cần loại bỏ, mà là một thực tại không thể đảo ngược. “Nếu ta khai thác tốt AI thì đó là một công cụ rất mạnh mẽ để thay đổi giáo dục. AI tái định nghĩa toàn bộ của quá trình dạy và học. Đó không chỉ là công cụ mà là tác nhân thay đổi sư phạm, thay đổi chúng ta cách dạy, học và đánh giá. Chúng ta chuyển đổi từ mô hình là truyền thụ tri thức sang mô hình là đồng kiến tạo giữa người và máy”, PGS.TS Đỗ Văn Hùng kỳ vọng.
Việc sử dụng AI hiệu quả hay rủi ro phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực của người sử dụng. Thay vì lo sợ người học gian lận, các nhà trường cần trang bị cho họ "bộ giáp" của tư duy phản biện và la bàn của đạo đức số. Cuộc cách mạng AI trong giáo dục không chỉ là cuộc cách mạng về công cụ, mà là cuộc cách mạng về tư duy. Mục tiêu cuối cùng là kiến tạo một thế hệ không chỉ biết dùng AI, mà còn biết đồng kiến tạo cùng AI, để không đánh mất chính mình trong thế giới của những thuật toán.