Ngày 4/3, Kỳ thi chọn học sinh giỏi (HSG) quốc gia năm 2022 bắt đầu với hơn 4.600 học sinh tham gia.
Kỳ thi chọn HSG quốc gia năm 2022 diễn ra trong 2 ngày, với 12 môn thi, gồm: ngữ văn, lịch sử, địa lí, toán, vật lí, hóa học, sinh học, tin học, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc.
So với năm 2021, số thí sinh dự thi tăng hơn 100 em. Kỳ thi tổ chức ở 67 hội đồng coi thi bao gồm các điểm thi do 63 sở giáo dục và đào tạo và các cơ sở đại học là Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường đại học Sư phạm Hà Nội, Trường đại học Vinh, Trường phổ thông vùng cao Việt Bắc.
Môn thi Ngữ văn có thời gian làm bài 180 phút với cấu trúc 2 phần: Nghị luận xã hội và nghị luận Văn học.
Câu 1: Nghị luận xã hội (8.0 điểm)
“Một hòn đá xù xì án ngữ trước cửa nhà từ lâu. Mọi người định dùng nó để xây tường, làm bậc hè, làm cối…, nhưng nhận thấy không thể được. Một hôm, có một nhà thiên văn đi qua và phát hiện ra hòn đá này. Cuối cùng, người ta đem một chiếc ô tô đến cẩn thận chở nó đi trước sự ngạc nhiên của người dân. Hóa ra hòn đá này rơi từ vũ trụ xuống đã mấy trăm năm. Nhà thiên văn nói rằng đó không phải là hòn đá thông thường, “đương nhiên không thể xây tường, lát bậc lên xuống, không thể điêu khắc và giặt vò quần áo. Nó không phải là thứ để làm những trò ấy, cho nên thường bị người đời chê bai”.
(Theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr. 63-64)
Trình bày ý kiến của anh/chị về vấn đề gợi ra từ câu chuyện trên.
Câu 2. Nghị luận văn học (12,0 điểm)
“Văn học soi sáng các giá trị, dẫn dắt con người vượt lên trên các giá trị nhất thời, vươn tới các giá trị bền vững”.
(Theo Ngữ văn 12 nâng cao, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, trang 83)
Bằng hiểu biết và trải nghiệm văn học, anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về quan điểm trên.
Bình luận trên trang cá nhân của mình, TS Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên môn Ngữ văn trường THPT chuyên Chu Văn An (Hà Nội) cho rằng, những năm gần đây, hai câu hỏi trong đề thi trong Kỳ thi chọn HSG Quốc gia THPT thường yêu cầu luận bàn về cùng một vấn đề, đương nhiên ở hai góc độ khác nhau của sự tiếp cận, hoặc từ góc nhìn của cuộc sống xã hội, hoặc soi chiếu trong những bình diện của văn chương. Đề thi năm học 2021 – 2022 cũng không ngoại lệ khi vấn đề xuyên suốt hai câu hỏi là “giá trị” – giá trị của một đối tượng, dù nhất thời hay muôn đời. Đó là vấn đề không mới, nhưng chưa bao giờ cũ với cả văn chương và cuộc sống.
Cụ thể, theo TS Trịnh Thu Tuyết, câu Nghị luận xã hội không đưa tới những phát hiện mới nhưng học sinh có thể nghĩ tới và luận bàn tất cả những khía cạnh liên quan tới giá trị và nhận thức, sử dụng giá trị - tới sự tinh tế của những con mắt xanh hoặc niềm tự tin về giá trị của những kẻ đợi thời, những hòn đá không lăn mọc rêu, rồi than như một nhân vật của Axit Nexin: “Giá như không có ruồi”, hoặc: “Giá có ai nhận ra ta”!
“Vấn đề có thể gợi đôi chút thú vị khi bàn luận thật ra không phải ở sự tinh tế, sắc sảo của người phát hiện mà chủ yếu ở cách chúng ta suy nghĩ thế nào về thân phận khá bẽ bàng của sự chờ đợi: Hòn đá rơi từ vũ trụ đã đợi con mắt xanh của nhà thiên văn cả mấy trăm năm, nếu mấy chục năm trước bố mẹ nhà thiên văn không gặp nhau, hoặc nếu nhà thiên văn không ngẫu nhiên đi qua làng ấy, không dừng chân và xem xét, hoặc giả chuyến đi đó, ông ta không mang đủ thiết bị hay máy móc đo đạc, kiểm tra…, hòn đá phi thường của vũ trụ chắc chắn sẽ mọc rêu như mọi sự vô dụng trên mặt đất này! Đó là những sự chờ đợi nhẫn nại tới trì trệ, kiên cường tới ngu ngốc, bị động, thụ động, bất động theo đúng cách của những vật vô tri? Phải chăng ý nghĩa lớn nhất của sự chờ đợi vô tri này chính là niềm tin khá mạo hiểm và rất ít trí tuệ vào giá trị của sự chờ thời, chờ sự phát hiện, đánh thức, sử dụng từ bên ngoài thay vì những nỗ lực hữu dụng tự thân?”, TS Trịnh Thu Tuyết phân tích.
Đối với câu Nghị luận văn học, TS Trịnh Thu Tuyết cho biết, đề thi yêu cầu bàn luận về giá trị văn học từ một quan niệm khá kinh điển và an toàn trong Sách Ngữ văn 12 nâng cao, tập hai: “Văn học soi sáng các giá trị, dẫn dắt con người vượt lên trên các giá trị nhất thời, vươn tới các giá trị bền vững.”
Hai khái niệm “giá trị nhất thời” và “giá trị bền vững” theo TS Trịnh Thu Tuyết không cùng một tiêu chí phân loại, chỉ là lâu nay nhiều người mặc định coi sự “nhất thời” về hiện hữu đồng nhất với “nhất thời” về giá trị!
Các giá trị của văn học là những vấn đề xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của văn học trong lịch sử nhân loại – tuy nhiên nếu sự vận động thay đổi của cuộc sống là bất biến thì quan niệm về giá trị và sự thay đổi các giá trị (dù của văn học hay bất kì đối tượng nào trong cuộc sống) cũng luôn vận động, thay đổi.
Chân – Thiện – Mĩ thường được coi là những giá trị cao quí mà nhân loại vất vả tìm kiếm, tạo lập, khát khao chinh phục, sở hữu, đương nhiên đó được coi là những “giá trị bền vững” muôn đời, nhưng mỗi thời đại (của cái “nhất thời”) lại có quan niệm khác nhau về Chân – Thiện – Mĩ, sự tử tế, chân thành, cái đẹp của thời trước có khi lại tàn nhẫn, lệch lạc, duy ý chí ở thời sau.
Minh họa cho phân tích của mình, TS Trịnh Thu Tuyết nhắc tới câu nói của nhân vật Lượng trong truyện ngắn “Thư nhà” của Hồ Phương khi nghe tin người yêu bị giặc làm nhục: “Việc ấy cũng không hề gì. Miễn là Chi vẫn trung thành với dân với nước” có thể coi là biểu hiện của Chân – Thiện – Mĩ một thời, khi con người đặt quyền lợi và số phận cộng đồng lên trên mọi nỗi niềm hay thân phận cá nhân – còn bây giờ, câu nói ấy khiến tôi thấy sợ hãi vì khả năng tự đè nén phần nhân tính tự nhiên trong một con người... Hoặc nhân vật bà Cà Xợi trong tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức làm món gà kho nước dừa ngon nhất trong cuộc đời làm mẹ, cho tên ác ôn, cũng là thằng Xăm, con trai bà, ăn bữa cuối cùng trước khi hẹn du kích tới chặt đầu hắn?
"Vậy là học trò có thể thấy không hẳn sự vận động các giá trị văn học luôn đi theo hướng “dẫn dắt con người vượt lên trên các giá trị nhất thời, vươn tới các giá trị bền vững” mà chính các “giá trị nhất thời” trong mỗi hoàn cảnh lịch sử, xã hội của các thời đại mới có giá trị điều chỉnh để hướng tới hoàn thiện và làm mới những “giá trị bền vững” muôn đời", TS Trịnh Thu Tuyết gợi mở.
Tuy nhiên, TS Trịnh Thu Tuyết cho rằng, đề thi có thể cũ nhưng trò mới vẫn có thể tìm ra cái mới, miễn là đáp án không phải “những hành lang vừa hẹp vừa thấp” ngày xưa!