Ngã ba biên giới Bờ Y - nơi 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia gặp nhau - luôn mang một vẻ trầm mặc rất riêng. Trong sắc nắng sớm cuối mùa mưa, những học viên trẻ người Việt, Lào, Campuchia đứng cạnh nhau, nụ cười rạng rỡ dưới màu xanh áo lính. Họ chỉ tay về những cột mốc, đường biên xa hút tầm mắt, giới thiệu từng đoạn địa hình, từng phần “bài học sống” mà họ vừa được thầy hướng dẫn thực địa. “Trên này là đường biên Việt Nam - Lào, phía dưới là Việt Nam - Campuchia, còn đường này là biên giới Lào - Campuchia… Điểm đứng của chúng ta chính là tâm ngã ba biên giới...” một học viên Lào hồ hởi giải thích bằng tiếng Việt còn pha chút ngập ngừng nhưng đầy tự hào.

Đại tá, TS. Nguyễn Đức Mạnh, Trưởng khoa Biên phòng, hướng dẫn tỉ mỉ cho học viên: từ cách nhận diện đường biên, xác định hướng mở bản đồ, bố trí đội hình tuần tra, đến xử lý tình huống khi gặp đối tượng vi phạm. Ông nói với các học viên Lào và Campuchia: “Đây là những kiến thức mà các bạn sau này về nước đều phải áp dụng hằng ngày. Thầy trò mình học trên lớp một phần, còn phần quan trọng nhất là phải tận tay chạm vào đường biên, tận mắt nhìn cách Bộ đội Biên phòng Việt Nam thực hiện nhiệm vụ.”

Khung cảnh giản dị ấy là biểu tượng rõ nhất của triết lý đào tạo tại Học viện Biên phòng: Lý thuyết gắn với thực tiễn - Nhà trường gắn với biên giới. Một triết lý không chỉ nói bằng lời, mà đang được hiện thực hóa bằng những chuyển động mạnh mẽ nhất trong hệ thống trường quân đội hiện nay.

Đào tạo học viên quốc tế - đầu tư vào chiều sâu

Phương châm “giới thiệu đi - tay cầm tay chỉ việc” được duy trì nhiều năm nay. Không chỉ học viên Việt Nam mà cả học viên quốc tế đều được đưa đến các đồn biên phòng, cửa khẩu, khu dân cư biên giới để rèn luyện thực tế. Nhiều học viên khi trở về đơn vị đã trở thành lực lượng nòng cốt trong các đồn biên phòng, đơn vị tác chiến biên giới.

Đại tá Nguyễn Lê Nam, Chính trị viên hệ Quốc tế, cho biết: Học viện Biên phòng hiện đào tạo hai đối tượng: Sĩ quan bậc đại học cho Quân đội Nhân dân Lào và Quân đội Hoàng gia Campuchia; học 4 năm như học viên Việt Nam. Đồng thời, đào tạo các lớp tập huấn ngắn hạn cho cán bộ chỉ huy, tham mưu của hai nước bạn, tập huấn 3-6 tháng.

Theo Đại tá Nam, học viên Lào, Campuchia gặp không ít khó khăn về phong tục, thói quen sinh hoạt, khác biệt ẩm thực, nhịp sống gây trở ngại thời gian đầu. Nhiều học viên dù đã qua các lớp tiếng Việt nhưng vẫn gặp khó khi tiếp cận thuật ngữ chuyên ngành. Đặc biệt, môn học đặc thù: trinh sát, bản đồ, điều lệnh, chiến thuật… đòi hỏi kỹ năng thực hành cao.

Để khắc phục điều đó, Học viện yêu cầu giảng viên soạn bài giảng chi tiết làm tài liệu chính thay cho giáo trình chuẩn vốn mang nhiều thuật ngữ khó. Với lớp tập huấn ngắn hạn, giảng viên phối hợp phiên dịch để biên tập bài học thành bản tiếng mẹ đẻ cho học viên. Đồng thời, hỗ trợ học viên quốc tế mở phòng máy tại các tiểu đoàn, cho phép sử dụng máy tính, điện thoại thông minh theo quy chế mới, tổ chức Câu lạc bộ tiếng Việt và tiếng Anh, học nhóm theo mô hình “học viên Việt Nam kèm học viên quốc tế”.

Có thời điểm cao nhất, học viện tiếp nhận hơn 120 học viên quốc tế. Những năm gần đây, con số dao động theo nhu cầu của hai nước nhưng chất lượng đào tạo được đánh giá là tăng vững chắc qua từng khóa.

Học viên Seang M., người Campuchia, hiện học chuyên ngành trinh sát, chia sẻ bằng tiếng Việt khá trôi chảy: “Năm đầu tiên, em rất khó vì tiếng Việt. Khi học chuyên ngành, nhiều môn bản đồ hay chiến thuật rất khó. Nhưng em cố gắng đọc bài, nói chuyện với nhân dân, với bạn bè để quen tiếng Việt.”

Trong gia đình Seang, có bố và anh trai đều là quân nhân. Em nói: “Được sang Việt Nam học là may mắn của em và gia đình. Sau này về nước, em sẽ phục vụ quê hương.”

Seang cười hiền khi kể về lần đầu đi thực địa ở sông biên giới, “suýt ngã xuống nước vì không quen đường”. Em mong muốn có thêm tài liệu học đơn giản hơn và nhiều lần được quay lại Việt Nam học nâng cao.

Một điểm nổi bật ở Học viện Biên phòng trong nhiều khóa, đó là hơn 40% học viên là người dân tộc thiểu số. Đây là lực lượng sau khi ra trường sẽ về các địa bàn biên giới - nơi chính ngôn ngữ và phong tục bản địa trở thành lợi thế. Tuy nhiên, đây cũng là nhóm có nhiều khó khăn nhất, bởi năng lực ngoại ngữ hạn chế, kỹ năng công nghệ thông tin thấp, tư duy lô-gic, phân tích còn yếu.

Học viện đã thành lập Câu lạc bộ tiếng Anh do chính học viên dân tộc xuất sắc điều hành, tổ chức "Học kỳ biên giới" cho học viên phát huy sở trường địa bàn; mở lớp bồi dưỡng tin học bắt buộc; tổ chức sinh hoạt hàng tuần, kết hợp với hệ thống máy tính được mở tại tiểu đoàn để học viên quen với công nghệ. Nhờ đó, tỷ lệ học viên tốt nghiệp đạt khá, giỏi tăng đều qua từng năm.

Đây cũng là bước chuẩn bị cho chiến lược “nhà trường thông minh - chuyển đổi số” mà Học viện đang triển khai, gồm: phần mềm quản lý đào tạo, phòng học thông minh, tài liệu điện tử, kho học liệu trực tuyến.

Đổi mới chương trình - giảng đường gắn sát biên giới

Sau khi Bộ Quốc phòng quán triệt chủ trương “chất lượng đào tạo của nhà trường gắn với khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, Học viện Biên phòng là đơn vị đầu tiên trong khối trường quân đội tổ chức hội thảo nhận diện mô hình đào tạo mới. Đại tá, PGS.TS Phạm Tuấn Đợi- Phó Giám đốc Học viện Biên phòng cho biết: “Chúng tôi không đào tạo một ‘người lính giỏi’ đơn thuần. Chúng tôi đào tạo một sĩ quan biên phòng - người vừa biết chiến đấu, vừa biết quản lý nhà nước về biên giới, vừa làm được công tác vận động quần chúng và đối ngoại biên phòng”.

Năm học này, Học viện Biên phòng điều chỉnh 8/28 chương trình đào tạo, 3 chương trình mới xây dựng để phù hợp với yêu cầu mới. Đặc biệt, 100% giảng viên nam - kể cả giảng viên ngoại ngữ, công nghệ thông tin, pháp luật đều được tham gia đi thực tế, cầm súng trực gác, tuần tra tại các đồn biên phòng. Giảng viên nữ được bố trí tham gia đoàn kiểm tra, khảo sát chuyên môn để nắm vững thực tiễn.

Để đánh giá chất lượng đào tạo, học viện gửi phiếu đánh giá về Bộ Chỉ huy Biên phòng các tỉnh, theo dõi kết quả hoàn thành nhiệm vụ 1-3 năm sau tốt nghiệp. Chỉ tiêu sĩ quan giỏi được Học viện xác định là tỷ lệ thực chất, dựa trên: điểm học tập, kết quả diễn tập, rèn luyện kỷ luật, thi đua - khen thưởng, tiêu chí đảng viên. Việc “không nâng điểm ảo” được coi là nguyên tắc để giữ chất lượng đầu ra.

Học viện đặt mục tiêu xây dựng mô hình “Nhà trường thông minh”, với 8 nhóm nội dung và 6 mức độ chuẩn hóa. Học viên Nguyễn Gia Khánh, trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 13, Tiểu đoàn 4- đạt thành tích cao trong năm đầu tại Học viện chia sẻ: “Nếu học viên không được tiếp cận công nghệ, không thể trở thành sĩ quan biên phòng thời kỳ mới. Nhận thức sâu sắc được điều này, nên chúng em hàng ngày hàng giờ nỗ lực nắm bắt, làm chủ công nghệ trong tất cả các môn của nhà trường”.

Theo Đại tá, PGS.TS Phạm Tuấn Đợi- Phó Giám đốc Học viện Biên phòng, trọng tâm sắp tới, nhà trường đào tạo sát nhiệm vụ các tuyến biên giới, đặc biệt trong bối cảnh tội phạm xuyên biên giới gia tăng. Tăng cường đào tạo sĩ quan cấp phân đội, đảm bảo nguồn lực bổ sung kịp thời cho biên phòng các tỉnh. Nâng cao chất lượng học viên quốc tế, xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ Lào, Campuchia có thể trở thành giáo viên tại trường biên phòng nước bạn. Cập nhật liên tục quy chế pháp lý, cơ chế phối hợp giữa biên phòng - quân sự địa phương - chính quyền địa phương.

Giữa bạt ngàn gió núi, những học viên trưởng thành từ Học viện Biên phòng dù đến từ Tuyên Quang, Thanh Hóa, Quảng Trị, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Xiêng Khoảng (Lào) hay Phnom Penh (Campuchia) vẫn chung một ước mơ: trở thành người lính giữ biên cương và Học viện Biên phòng chính là nơi ươm mầm để ước mơ ấy thành hiện thực.