Theo chuyên gia ngôn ngữ, GS.TS Nguyễn Văn Khang, Đại học Phenikaa, “khả” là yếu tố Hán - Việt không đứng độc lập mà kết hợp với yếu tố khác để tạo nghĩa. Nghĩa gốc của “khả” là “đồng ý, cho phép”. Sau đó mở rộng thành “có thể”, “xứng đáng”, “thích hợp”. Trong tiếng Việt, “khả” góp mặt trong nhiều từ quen thuộc.

“Khả ái” chỉ sự đáng yêu nhưng trang trọng, khái quát hơn so với cách nói “đáng yêu” thông thường.

“Khả dĩ” mang hai lớp nghĩa: “có khả năng” và “có thể chấp nhận được”.

“Khả thi” thể hiện khả năng thực hiện trên thực tế, khác với “khả dĩ”.

“Khả úy” trong thành ngữ “hậu sinh khả úy” được hiểu là “đáng phục”, nhấn mạnh thế hệ sau không thể coi thường.

GS.TS Nguyễn Văn Khang nhấn mạnh rằng từ Hán – Việt thường ngắn gọn, khái quát và phù hợp văn bản pháp lý, hành chính; trong khi từ thuần Việt dễ hiểu, gần gũi trong giao tiếp hằng ngày. Nguyên tắc sử dụng là cân nhắc bối cảnh: những trường hợp tiếng Việt không có từ tương đương thì cần dùng Hán - Việt, còn khi có thể thay thế, nên ưu tiên tiếng Việt để giữ gìn bản sắc./.