Quy mô đào tạo sau đại học ở nước ta rất thấp và không tăng trong nhiều năm qua, đặc biệt tỷ trọng quy mô đào tạo sau đại học khối ngành STEM rất thấp. Nguồn nhân lực chất lượng cao không tăng sẽ ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu trở thành một nước “có công nghiệp hiện đại” vào năm 2030?

Về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Minh Sơn – Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có một vài chia sẻ với VOV2.

Phóng viên: Thưa Thứ trưởng, quy mô đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ta đang chiếm tỷ trọng như thế nào?

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Trong một vài năm gần đây, quy mô đào tạo trình độ đại học ở nước ta tăng khá trở lại sau một thời gian sụt giảm, năm học 2021-2022 đạt khoảng 2,1 triệu sinh viên, số sinh viên nhập học mới theo tất cả các hình thức đào tạo năm 2022 xấp xỉ 570 ngàn. Trong khi đó, quy mô đào tạo sau đại học rất thấp và không tăng trong nhiều năm qua, năm 2021 chỉ đạt xấp xỉ 122 ngàn (110 ngàn học viên thạc sĩ và 12 ngàn nghiên cứu sinh tiến sĩ), tính tỉ lệ trên dân số chưa bằng 1/3 so với Malaysia và Thailand và 1/2 so với Singapore và Phillipines, xấp xỉ 1/9 lần so với mức trung bình của các nước OECD. So với tổng quy mô đào tạo của 3 trình độ cấp văn bằng giáo dục đại học (cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ và các văn bằng trình độ tương đương), quy mô đào tạo trình độ thạc sĩ chiếm tỉ trọng xấp xỉ 5,0%, ở trình độ tiến sĩ chưa đạt 0,6%, trong khi các tỉ trọng đó ở Malaysia lần lượt là 10,9% và 7,0%, ở Singapore là 9,5% và 2,2%, tính bình quân các nước có thu nhập trung bình lần lượt là 10,7% và 1,3%, tính bình quân các nước OECD lần lượt là 22,0% và 4,0%.

Phóng viên: Thế giới đang rất chú trọng đến nhân lực khối ngành STEM, ở nước ta quy mô đào tạo sau đại học khối ngành STEM hiện nay ra sao?

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Theo Danh mục giáo dục, đào tạo của Hệ thống giáo dục quốc dân, khối ngành STEM bao gồm 8 lĩnh vực là Khoa học tự nhiên, Khoa học sự sống, Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng; tương ứng với 3 lĩnh vực theo phân loại của UNESCO trong Danh mục ISCED-F 2013 là Khoa học tự nhiên, toán và thống kê, Công nghệ thông tin và truyền thông, Kỹ thuật, sản xuất và xây dựng.

Tính trên tổng số sinh viên, tỷ lệ sinh viên khối STEM của Việt Nam ở trình độ đại học nằm ở mức tương đương với nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới, tuy nhiên ở các trình độ sau đại học lại thấp hơn hàng chục lần.

Quy mô đào tạo sau đại học khối ngành STEM suy giảm một cách đáng lo ngại trong những năm gần đây và chỉ chiếm chưa tới 4,0% tổng quy mô đào tạo các trình độ thuộc khối STEM và có sự khác biệt lớn giữa các lĩnh vực đào tạo.

Năm 2021, số học viên đang theo học thạc sĩ chỉ chiếm 3,37% quy mô đào tạo các trình độ trong khối STEM (thấp hơn tỷ lệ học viên thạc sĩ nói chung) và chiếm 20,08% tổng số học viên thạc sĩ tất cả các lĩnh vực (thấp hơn tỷ lệ sinh viên đại học khối STEM tính trên tổng số sinh viên đại học tất cả các lĩnh vực). Tuy nhiên 3 lĩnh vực có tỉ lệ học thạc sĩ đạt dưới 2% bao gồm Máy tính và công nghệ thông tin (1,99%), Sản xuất và chế biến (1,83%) và Công nghệ kỹ thuật (0,18%). Trong khi đó các lĩnh vực Khoa học và toán có tỉ lệ theo học thạc sĩ lớn nhất và gấp nhiều lần mức trung bình cả khối STEM. Xét về số lượng, hai lĩnh vực Sản xuất và chế biến và Công nghệ kỹ thuật đóng góp không đáng kể vào quy mô đào tạo thạc sĩ của cả khối. Năm 2021, tuyển sinh toàn khối STEM chưa đạt được 40% chỉ tiêu đào tạo thạc sĩ và không có lĩnh vực nào tuyển đạt 50% chỉ tiêu.

Thực trạng quy mô đào tạo tiến sĩ ở các lĩnh vực STEM cho bức tranh màu xám hơn khi tỉ lệ nghiên cứu sinh trên tổng số sinh viên các trình độ đào tạo của khối này thấp hơn 0,4%, chỉ bằng khoảng 1/9 so với Hàn Quốc, 1/13 so với Israel và mức trung bình của EU, 1/15 so với Phần Lan và Đức. Đặc biệt đáng lo ngại là với xu hướng tuyển sinh hiện nay, quy mô đào tạo tiến sĩ có xu hướng tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo nếu không sớm có những giải pháp đột phá.

Trong năm 2021, tổng số nghiên cứu sinh tuyển mới các ngành STEM chỉ vỏn vẹn 309 người, nếu tính tới cả tỉ lệ không tốt nghiệp được và giả thiết tất cả những người tốt nghiệp tiến sĩ đều sẽ về làm giảng viên đại học thì trung bình hàng năm mỗi cơ sở giáo dục đại học chưa bổ sung được thêm 01 giảng viên có trình độ tiến sĩ khối STEM từ nguồn đào tạo trong nước, chưa nói tới đáp ứng nhu cầu của các viện nghiên cứu, các trung tâm R&D của các tập đoàn công nghệ!

Tỷ lệ nhân lực trình độ cao, nhất là trình độ thạc sĩ và tiến sĩ trong các lĩnh vực STEM thể hiện trình độ phát triển của khoa học-công nghệ và của cả nền kinh tế. Đào tạo các trình độ sau đại học khối ngành STEM cung ứng nguồn nhân lực thiết yếu cho phát triển các lĩnh vực công nghệ, nhất là công nghệ cao phục vụ chuyển đổi cơ cấu, phát triển nền kinh tế tri thức dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Quy mô đào tạo sau đại học thấp và khan hiếm là thực trạng đáng lo ngại đối với định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Phóng viên: Theo Thứ trưởng, đâu là nguyên nhân khiến quy mô đào tạo sau đại học khối ngành STEM của ta ở mức rất thấp và có xu hướng ngày càng giảm?

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Giáo dục đại học cũng như giáo dục nghề nghiệp là những dịch vụ công đặc biệt, nhưng nó cũng tuân thủ những quy luật của thị trường nếu không có sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Mức độ phát triển và cấu trúc của nền kinh tế đặt ra nhu cầu của thị trường lao động, từ đó tác động trực tiếp tới quy mô, cơ cấu và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Ngược lại, quy mô, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực là một trong các yếu tố quyết định tới năng suất lao động, khả năng thu hút đầu tư, dịch chuyển cơ cấu và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Khi trình độ khoa học, công nghệ ở nước ta còn thấp, các ngành sản xuất vẫn nặng về khai thác, gia công và lắp ráp, các dự án đầu tư vẫn chủ yếu dựa trên lợi thế về nguồn nhân lực giá rẻ, thì nhu cầu trước mắt về nguồn nhân lực có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ khối STEM sẽ không cao. Sinh viên tốt nghiệp đại học sẽ hết sức cân nhắc giữa chi phí và cơ hội của việc chọn con đường học tiếp lên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, so với việc lựa chọn đi làm ngay để có thu nhập, nhất là khi thiếu chế độ, chính sách học bổng phù hợp. Như vậy, đối với các lĩnh vực STEM thì chỉ những sinh viên thuộc gia đình có điều kiện, có đam mê và có quyết tâm học lên cao, hoặc những người đã đi làm khi thấy thực sự có yêu cầu từ công việc (như giảng viên các trường đại học hoặc nghiên cứu viên tại các viện nghiên cứu) mới chọn con đường học lên thạc sĩ, tiến sĩ. Bên cạnh đó, hiện nay những người có năng lực tốt có nhiều cơ hội nhận học bổng để lựa chọn đi học tại các trường đại học nước ngoài, nhất là ở trình độ tiến sĩ.

Việc lựa chọn học tiếp lên các trình độ sau đại học cũng phụ thuộc vào đặc điểm lĩnh vực, ngành đào tạo cũng như mô hình đào tạo. Ví dụ, các lĩnh vực Khoa học tự nhiên, Khoa học sự sống, Toán và thống kê có tỷ lệ học sau đại học cao hơn hẳn những lĩnh vực khác, bởi một phần không nhỏ sinh viên tốt nghiệp những ngành này sẽ theo đuổi công việc giảng dạy hoặc nghiên cứu, việc học lên các trình độ cao hơn là rất cần thiết và được tạo điều kiện. Trong khi đó, sinh viên các ngành thuộc lĩnh vực Công nghệ kỹ thuật đã được định hướng ngay từ đầu theo hướng ứng dụng, vì vậy số học lên trình độ cao hơn thấp hơn hẳn. Đối với các ngành thuộc lĩnh vực Máy tính và Công nghệ thông tin hiện nay lại có cơ hội việc làm khá tốt, hầu hết sinh viên đã có việc làm trước hoặc ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, vì vậy động lực để học tiếp lên trình độ thạc sĩ không nhiều. Đối với các ngành kỹ thuật và một số ngành công nghệ, mô hình đào tạo kỹ sư và thạc sĩ hiện đang triển khai tại nhiều trường đại học cũng có vấn đề cần lưu ý. Đa số trường đại học kỹ thuật truyền thống thực hiện chương trình đào tạo kỹ sư 5 năm (nhất là đối với các lĩnh vực Máy tính và công nghệ thông tin, Kỹ thuật, Kiến trúc và xây dựng) tương tự mô hình đào tạo kỹ sư trước đây của các nước châu Âu. Nhiều chương trình đào tạo kỹ sư này có khối lượng thường nhiều hơn 150 tín chỉ, mặc dù chưa được coi là trình độ sau đại học nhưng đa số người học không nhìn thấy khác biệt lớn khi học lên trình độ thạc sĩ.

Bên cạnh yếu tố thị trường lao động và đặc điểm ngành học, thì quan niệm và sự hiểu biết chưa đầy đủ và đúng đắn của người học nói riêng và xã hội nói chung về vai trò của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, đặc điểm và cơ hội phát triển nghề nghiệp của các lĩnh vực STEM trong tương lai cũng là một nguyên nhân dẫn tới một số lĩnh vực STEM thiếu sức thu hút người học, nhất là ở bậc sau đại học. Đặc biệt, sự định kiến về khả năng, sở trường và cơ hội phát triển của nữ giới trong các ngành kỹ thuật, công nghệ dẫn tới sự mất cân bằng lớn về giới trong cơ cấu đào tạo các ngành này, cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ theo học sau đại học khối STEM rất thấp ở Việt Nam.

Đứng về các trường đại học, việc đào tạo các ngành STEM nói chung và ở các trình độ sau đại học nói riêng thường yêu cầu chi phí khá lớn, nếu không có hỗ trợ hoặc đặt hàng, giao nhiệm vụ từ Nhà nước hoặc doanh nghiệp sẽ khó có thể bù đắp chi phí đào tạo từ nguồn học phí của người học. Đặc biệt là đào tạo ở trình độ tiến sĩ phải gắn với nghiên cứu, các trường đại học thường phải thực hiện chính sách miễn giảm học phí và hỗ trợ thêm cho nghiên cứu sinh từ nguồn thu hoạt động khoa học – công nghệ thì mới có khả năng cạnh tranh, tuyển chọn được nghiên cứu sinh có năng lực. Trong khi đó, ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên cho các cơ sở giáo dục đại học bị cắt giảm theo lộ trình, các nguồn kinh phí khoa học-công nghệ từ Nhà nước cũng không tăng. Do vậy, chỉ một số ít các cơ sở đào tạo lớn có uy tín, có tiềm lực tài chính và có năng lực nghiên cứu mạnh thì mới có khả năng thu hút học viên sau đại học, nhất là nghiên cứu sinh các ngành STEM.

Theo số liệu thống kê năm 2021, trong 59 cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu có đào tạo tiến sĩ các ngành STEM với tổng số 2579 nghiên cứu sinh, chỉ có 20 cơ sở đào tạo có từ 20 nghiên cứu sinh trở lên và đã chiếm gần 90% tổng số nghiên cứu sinh khối ngành này.

Phóng viên: Vậy theo Thứ trưởng, cần có những cơ chế, chính sách đột phá như thế nào để có thể mở rộng được quy mô mà vẫn đảm bảo chất lượng đối với các ngành đào tạo STEM?

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Quy mô đào tạo các lĩnh vực STEM thấp là thực trạng đáng lo ngại đối với định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Do đó, cần có chiến lược đầu tư trọng tâm, trọng điểm tại một số cơ sở giáo dục đại học có uy tín đào tạo các lĩnh vực STEM để tăng nhanh quy mô đào tạo nói chung và quy mô đào tạo sau đại học nói riêng.

Trước hết từ phía Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách đầu tư trọng điểm cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao các ngành STEM, nhất là ở trình độ sau đại học, tạo động lực dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế và kéo theo là thị trường lao động trình độ cao, tác động tích cực trở lại đối với toàn hệ thống giáo dục đại học.

Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực đặc biệt, muốn đổi mới và phát triển phải có đủ nguồn lực, thời gian và lộ trình phù hợp, cần có những cơ chế, chính sách hiệu quả, ổn định và bền vững. Những chủ trương, chính sách đổi mới giáo dục đại học của chúng ta đang đi đúng hướng, nhất là chủ trương đẩy mạnh tự chủ đại học từ khi thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP năm 2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học 2018 (gọi là Luật số 34/2018/QH14). Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay chính là việc triển khai chưa đồng bộ, hiệu quả các chính sách của Nhà nước về tài chính đối với giáo dục đại học đã được quy định tại Luật 34.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hoàn thiện xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển công nghệ cao để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đề án này tích hợp nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực đặt ra từ một số chiến lược, chương trình và đề án phát triển đối với các ngành, lĩnh vực khác nhau đã được Thủ tướng phê duyệt và giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì. Một số giải pháp cụ thể sẽ được đề xuất nhằm mở rộng quy mô đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình độ cao các lĩnh vực STEM, như áp dụng chính sách hỗ trợ trực tiếp người học qua cơ chế tín dụng và học bổng, chính sách đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu đào tạo các chương trình trọng điểm STEM, chính sách ưu tiên giao nhiệm vụ khoa học, công nghệ gắn với đào tạo sau đại học. Đặc biệt, đối với đào tạo ở trình độ tiến sĩ, nhất định phải có chế độ học bổng, hỗ trợ tài chính phù hợp để nghiên cứu sinh có thể tập trung toàn thời gian cho việc học tập, nghiên cứu và sinh hoạt học thuật tại đơn vị quản lý chuyên môn, bảo đảm chất lượng và đồng thời đóng góp cho phát triển nghiên cứu của cơ sở đào tạo.Việc quan tâm đầu tư cho hoạt động nghiên cứu cả từ phía nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học, nhất là đầu tư cho đào tạo sau đại học gắn kết với nghiên cứu khoa học sẽ là một giải pháp then chốt để vừa tăng mạnh tiềm lực nghiên cứu, đồng thời phát triển đội ngũ nhân lực KHCN chất lượng cao.

Bên cạnh các chính sách của Nhà nước, các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu lớn cũng cần chủ động xác định rõ sứ mạng, tầm nhìn, chiến lược, kế hoạch và giải pháp phù hợp để tham gia phát triển nguồn nhân lực STEM trình độ cao, đào tạo tài năng khoa học - công nghệ cho đất nước trong giai đoạn mới. Một giải pháp có thể coi là đột phá đối với các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu, đó là tăng cường hợp tác, liên kết thành một mạng lưới cơ sở đào tạo trọng điểm các lĩnh vực STEM để triển khai mô hình giáo dục đại học số, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ giáo dục tiên tiến, qua đó vừa giúp mở rộng quy mô, đồng thời giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Các cơ sở đào tạo cũng cần hợp tác, liên kết với nhau và với các doanh nghiệp để cùng đẩy mạnh công tác truyền thông, hướng nghiệp, xóa bỏ định kiến giới tính trong con đường phát triển nghề nghiệp, qua đó thu hút nhiều sinh viên giỏi, tài năng đăng ký học các ngành STEM ở cả bậc đại học và sau đại học.

Trong bối cảnh mới, chương trình đào tạo cũng như phương pháp dạy và học các ngành STEM trong các trường đại học cũng cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, chú trọng đồng thời kiến thức nền tảng, phát triển năng lực cốt lõi và khả năng thực hành nghề nghiệp; tăng cường tiếp cận liên ngành và xuyên ngành, gắn kết chặt chẽ hơn giữa đào tạo với nghiên cứu, trải nghiệm và sáng tạo. Những người tốt nghiệp có khả năng thích nghi cao với những sự thay đổi của công nghệ và đủ năng lực sáng tạo để không bị thay thế bởi công nghệ, nhất định phải là người được trang bị kiến thức nền tảng vững chắc và năng lực cốt lõi thiết yếu để tự học, tự nghiên cứu, làm chủ công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cuối cùng thì chất lượng đào tạo và thành công của người học (trong cả quá trình học tập và phát triển nghề nghiệp sau nay) vẫn là yếu tố quyết định để thu hút đầu vào, qua đó từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh và đào tạo. Bên cạnh đó, các trường đại học cần nghiên cứu để cải tiến mô hình đào tạo kỹ sư cho phù hợp với thông lệ quốc tế, thiết kế lại các chương trình đào tạo để bảo đảm tính liên thông giữa các trình độ, tạo thuận lợi cho sinh viên học chuyển tiếp lên thạc sĩ và tiến sĩ.

PV: Xin cảm ơn Thứ trưởng!