Cần tăng quyền tự chủ Đại học
Góp ý về dự án Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi), đại biểu Đào Ngọc Dung - Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo cho rằng, tự chủ là khâu đột phá quan trọng của phát triển đại học. Bởi khi tự chủ, muốn phát triển nhanh, đại học buộc phải nâng cao chất lượng. Do đó, đại biểu Đào Ngọc Dung đề nghị Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi) nên viết kỹ hơn về nội dung tự chủ, trong đó cho phép các trường đại học tự chủ tài chính và toàn quyền quyết định nhân sự. Bởi nếu chỉ tự chủ về tài chính sẽ có thể kìm hãm sự phát triển.

Cho ý kiến xây dựng dự án Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi), Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Nghệ An - Thái Thị An Chung cơ bản đồng tình với các nội dung sửa đổi, đặc biệt là những quy định tăng cường quyền tự chủ đại học. Tuy nhiên, đại biểu cũng bày tỏ sự băn khoăn về các quy định liên quan đến tự chủ học thuật và tự chủ tuyển sinh. Những nội dung này cần điều chỉnh để bảo đảm tính thống nhất, thực chất khi triển khai. Cụ thể, về tự chủ học thuật, theo khoản 3 Điều 23 của dự thảo, các cơ sở giáo dục đại học được cấp quyền xây dựng chủ động, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo theo chuẩn chương trình đào tạo. Tuy nhiên, khoản 2 và khoản 3 Điều 24 lại quy định Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phải phê duyệt chương trình đào tạo đối với các ngành đào tạo giáo dục, lĩnh vực sức khỏe, pháp luật và toàn bộ chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ.
Cũng băn khoăn về quy định tại khoản 2 và khoản 3, Điều 24 dự án Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi), đại biểu Lê Thanh Hoàn (đoàn Thanh Hóa) cho rằng việc kiểm soát chặt chẽ thông qua cơ chế phê duyệt chương trình đào tạo có thể sẽ dẫn đến hạn chế quyền tự chủ học thuật của các cơ sở, kéo dài thời gian cập nhật chương trình. Hơn nữa, việc Bộ Giáo dục và Đào tạo phải phê duyệt chương trình đào tạo cụ thể thay vì tập trung vào thẩm định, giám sát có thể dẫn đến chồng chéo quyền tự chủ về học thuật và kéo dài thời gian triển khai chương trình, gây khó khăn cho các cơ sở đào tạo cũng như ảnh hưởng đến nhu cầu của người học.
Về việc cấp phép hoạt động giáo dục đại học bao gồm cả hoạt động đào tạo trên không gian số (Điều 21, Khoản 2), Đại biểu Lê Thanh Hoàn lo ngại có thể tạo ra gánh nặng hành chính không cần thiết. Nếu cơ chế này không được thực hiện hợp lý có thể dẫn đến kìm hãm việc ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ đã được quy định tại Điều 10.
Do đó, đại biểu đề nghị chuyển cơ chế kiểm soát từ phê duyệt thực hiện chương trình sang giám sát việc tuân thủ chuẩn chương trình đào tạo và tăng cường vai trò kiểm định chất lượng định kỳ tại Điều 36: “Cơ quan quản lý nhà nước nên tập trung vào xây dựng chuẩn mực, thanh tra, hậu kiểm thay vì can thiệp sâu vào chuyên môn học thuật. Các cơ sở đào tạo tự chủ về việc xây dựng và ban hành chương trình nhưng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc đáp ứng chuẩn các yêu cầu về kiểm định.”
“Nếu có cấp phép về hoạt động đào tạo trên không gian số thì nên quy định rõ ràng rằng việc cấp phép hoạt động đào tạo số chỉ áp dụng cho mô hình giáo dục đại học số hoạt động độc lập, xuyên biên giới với những hoạt động yếu tố rủi ro cao về an ninh mạng và bảo mật dữ liệu, còn đối với các hình thức sử dụng công nghệ số thông thường như tích hợp trực tuyến hay từ xa thì chỉ cần quản lý thông qua cơ chế bảo đảm chất lượng đào tạo và tuân thủ quy định về an toàn và thông tin bảo mật.” - Đại biểu Lê Thanh Hoàn kiến nghị thêm.
Cân nhắc về công nhận văn bằng, chứng chỉ trong lĩnh vực y tế
Đánh giá việc cơ quan soạn thảo đề nghị hệ thống văn bằng chứng chỉ cấp quốc gia (bao gồm Đại học (Cử nhân, Thạc sĩ, và Tiến sĩ) là quan điểm đúng, đại biểu Trần Thị Nhị Hà cho rằng, đối với một số ngành nghề đặc thù (như lớp Y tế), ngoài việc đào tạo các cấp bằng cử nhân, chuyên sĩ, tiến sĩ về y học, chuyên ngành này còn có các công thức hình học tạo ra rất phù hợp với thực tế (như Bác sĩ nội địa, Bác chuyên khoa cấp I (CKI) và Bác sĩ chuyên khoa cấp II (CKII)). Lực lượng bác sĩ chuyên khoa này cung cấp nhân lực y tế chất lượng cao cho ngành. Đặc biệt, bác sĩ chuyên khoa 2 có trình độ thực hành cao và đóng góp rất nhiều cho bệnh nhân trong quá trình điều trị bệnh. Từ thực tế này, đại biểu đề nghị công nhận văn bản trong một số chuyên ngành thù địch trong Luật Giáo dục Đại học.

Đồng quan điểm, đại biểu Nguyễn Anh Trí cho biết, ngành y có hai hệ đào rất đặc biệt (ngoài hệ Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ thông thường) là Bác sĩ chuyên khoa (Chuyên khoa cấp I, Chuyên khoa cấp II) và hệ Bác sĩ nội trú. Đây là hệ chuyên khoa tập trung vào nghề và thực hành. Từ kinh nghiệm trong lĩnh vực y tế, đại biểu Nguyễn Anh Trí cho rằng, hệ thống này cần được duy trì và chính thức hóa văn bằng để có giá trị trong nước và trên quốc tế, phù hợp với sản phẩm của Bộ Y tế. Cụ thể hơn, đại biểu đề xuất nhập chuyên khoa cấp I và chuyên khoa cấp II làm một và đào tạo trong khoảng 3 đến 5 năm tùy chuyên khoa. Đại biểu cho rằng đề xuất này phù hợp với mô hình của nhiều nước tiên tiến, nơi bằng cấp chuyên gia được trả lương khác biệt.
Đại biểu Lê Văn Cường (đoàn Thanh Hóa) cũng cho rằng việc đào tạo chuyên khoa y tế theo mô hình chuyên khoa I, chuyên khoa II, bác sĩ nội trú đã được thực hiện từ những năm 1970. Chương trình đào tạo CK I 2 năm, CK II 2 năm, bác sĩ nội trú 3 năm. Tuy nhiên, các văn bằng này chưa thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, thiếu cơ sở công nhận. Dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi, bổ sung) có hình thức đào tạo sau đại học nhưng thiếu nhóm CK I, CK II trong lĩnh vực y tế. Vì thế, nên bổ sung thêm mục nữa là đào tạo trình độ chuyên khoa dành cho người học có trình độ từ đại học trở lên một số ngành thuộc lĩnh vực khoa học sức khỏe hoặc y tế.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn - ĐBQH Thành phố Hà Nội ghi nhận ý kiến của các Đại biểu Quốc hội và cho rằng những bác sĩ chuyên khoa và bác sĩ nội trú là những người giỏi chuyên môn, xứng đáng được tôn vinh. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT khẳng định ban soạn thảo sẽ nghiên cứu vấn đề một cách nghiêm túc và cầu thị.