Chị Nguyễn Thị Hồng, sống tại phường Hà Đông, HN cho biết, mấy tháng qua, chất lượng nước sinh hoạt nơi chị sống bị lẫn tạp chất, vì thế nhiều người dân cũng chỉ dùng cho giặt giũ, mà không dám sử dụng cho mục đích ăn uống. “Chúng tôi bây giờ vấn đề nước sinh hoạt rất khó khăn. Bể chưa ngấm như thế này rất lo ngại. Hiện tại chúng tôi phải mua nước ăn, 1 bình là 26.000 đồng”- chị Hồng nói.

Lo lắng nước sinh hoạt bị ô nhiễm ảnh hưởng đến trẻ nhỏ, vì thế, các gia đình đã phải bỏ tiền mua nước tinh khiết để sử dụng trong ăn uống. Chị Lê Thị Vi, sống tại phường Hà Đông có 2 con nhỏ, bé út mới hơn 1 tuổi nên chị rất lo tình trạng ô nhiễm nước sinh hoạt có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của các con. “Nước từ vòi xả ra vẫn nhớt và lẫn tạp chất thì làm sao sử dụng được, rất chi là lo sợ và ám ảnh”- chị Vy cho hay. Không thể tiếp tục sống trong sợ hãi, gia đình chị Vi đã quyết định bỏ vài chục triệu đồng để mua máy lọc nước để đảm bảo sức khỏe cho cả nhà.

Từ nhiều năm nay, các chuyên gia đánh giá chất lượng nước ngầm ở Hà Nội không đảm bảo. Vì thế, nước sinh hoạt cung cấp cho một số khu vực tại thủ đô đã chuyển từ nước ngầm sang nước mặt. Thế nhưng, không ai có thể đảm bảo rằng, nguồn nước mặt phục vụ sinh hoạt là an toàn tuyệt đối. Ô nhiễm nguồn nước là nguy cơ tiềm ẩn, có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân.

Các chuyên gia quốc tế và trong nước đã nhận định, chất gây ô nhiễm có trong nước có thể làm suy giảm sự phát triển, khả năng sinh sản và chức năng sinh sản ở người.

Nguyễn Phúc Khánh Linh - Trường Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) cũng đã thực hiện nghiên cứu về vấn đề ô nhiễm nguồn nước và mối liên quan đến khả năng sinh sản ở con người. Theo NCS Khánh Linh, khi nói đến các chất ô nhiễm trong nước có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản, nhiều nghiên cứu quốc tế uy tín đã chỉ ra những nhóm chất chính. Đó là kim loại nặng như arsenic, chì, cadmium, thủy ngân; các chất phá vỡ nội tiết - thường gặp trong thuốc trừ sâu; các hợp chất hữu cơ khó phân hủy; nitrate; và sản phẩm phụ khử trùng như trihalomethanes và haloacetic acids.

“Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy arsenic trong nước ngầm có liên quan đến sảy thai, sinh non và trẻ nhẹ cân. Nitrate cũng được ghi nhận trong một số nghiên cứu là có thể làm tăng nguy cơ bất thường bẩm sinh. Đặc biệt, nhóm hóa chất phá vỡ nội tiết có thể gây rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, ảnh hưởng đến rụng trứng ở nữ giới và làm giảm số lượng cũng như chất lượng tinh trùng ở nam giới. Trong bối cảnh công nghiệp, những hợp chất như benzen, phenol hay dung môi hòa tan đã được ghi nhận có khả năng gây độc cho tế bào trứng và tinh trùng” - NCS Khánh Linh cho hay.

Tại Việt Nam, các khảo sát môi trường cho thấy một số vùng nông thôn và công nghiệp có mức ô nhiễm arsenic và cadmium trong nước ở mức đáng lo ngại. Ngoài ra, hoạt động nông nghiệp với thuốc trừ sâu, hay nước thải từ làng nghề, cũng làm tăng nguy cơ tồn lưu hóa chất phá vỡ nội tiết trong nguồn nước mặt.

Trên phạm vi toàn cầu, sản phẩm phụ của quá trình khử trùng nước - gọi là DBPs, trong đó có trihalomethanes và haloacetic acids - đã được nghiên cứu rộng rãi. Các phân tích tổng hợp quốc tế cho thấy, những chất này có liên quan đến nguy cơ sảy thai, thai lưu, trẻ nhẹ cân và một số dị tật bẩm sinh, dù mức tăng rủi ro thường không lớn ở từng cá nhân.

“Tại Việt Nam, clo vẫn là chất khử trùng chủ yếu trong hệ thống cấp nước, nhưng hiện rất ít nghiên cứu chuyên sâu đánh giá nồng độ DBPs và tác động tới sức khỏe sinh sản. Một số báo cáo địa phương đã gợi ý rằng cần đo đạc và giám sát thường xuyên hơn, đặc biệt ở khu vực đô thị và công nghiệp. Có thể thấy, DBPs là một vấn đề được quan tâm trên toàn cầu, và với Việt Nam, đây là một hướng đi nghiên cứu cần được sớm bổ sung” - Khánh Linh nói.

Để hạn chế những tác động tiêu cực của nguồn nước ô nhiễm đối với sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản của con người nói riêng, theo các nhà nghiên cứu, chính phủ và cộng đồng cần có những hành động và biện pháp hữu hiệu.

NCS Nguyễn Phúc Khánh Linh cho biết, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã nhiều lần khuyến nghị cần đảm bảo nguồn nước sinh hoạt an toàn, kiểm soát chặt chẽ nguồn xả thải công nghiệp và nông nghiệp, và giám sát các chất nguy hại như kim loại nặng, nitrate, hóa chất phá vỡ nội tiết hay sản phẩm phụ khử trùng. Hay như Liên hợp quốc có mục tiêu số 6 đề cập về vấn đề Clean Water - Nước sạch là 1 trong 17 mục tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển bền vững.

Nhiều quốc gia đã cải tiến công nghệ xử lý nước, chẳng hạn như tối ưu hóa liều clo, lọc bỏ hợp chất hữu cơ trước khi khử trùng, hoặc bổ sung phương pháp như ozone và UV.

Các chương trình thay thế giếng nhiễm arsenic, sử dụng bộ lọc tại hộ gia đình và truyền thông sức khỏe cộng đồng cũng đã chứng minh hiệu quả ở nhiều nước đang phát triển như Thái Lan, Indonesia.

“Tại Việt Nam, chúng ta đã có những chương trình giám sát chất lượng nước, dự án xử lý nước thải đô thị, và cung cấp nước sạch cho nông thôn. Tuy nhiên, quy mô và nguồn lực vẫn còn hạn chế, và đặc biệt thiếu dữ liệu trực tiếp về tác động sinh sản. Ở cấp hộ gia đình, giải pháp thiết thực là sử dụng nước đã qua xử lý, đun sôi hoặc lọc, bảo trì bể chứa thường xuyên, và phụ nữ mang thai nên hạn chế tiếp xúc với nguồn nước nghi ngờ ô nhiễm. Ở cấp cộng đồng, cần quản lý chặt xả thải, mở rộng giám sát các chỉ tiêu nguy hại, và triển khai nghiên cứu liên vùng để cung cấp bằng chứng chính sách”- Khánh Linh chia sẻ.

Qua những nghiên cứu của mình, NCS Khánh Linh nhấn mạnh, chỉ khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa y tế, môi trường và ngành cấp nước, mới thực sự bảo vệ được sức khỏe sinh sản và thế hệ tương lai.