Mời nghe cuộc trao đổi giữa phóng viên VOV2 với Luật sư Đinh Thị Chúc, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội:

Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Tại Việt Nam, phí bảo hiểm tiền gửi được tính đồng hạng là 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Khung phí bảo hiểm tiền gửi do Thủ tướng Chính phủ quy định theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được áp dụng từ khi thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đến nay. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chịu trách nhiệm tính và thu phí bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả hoặc phá sản, và Ngân hàng Nhà nước có văn bản xác nhận chính thức. Người gửi tiền được nhận lại tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm , bao gồm tiền gốc và lãi, tính gộp cho tất cả các khoản tiền gửi tại cùng một tổ chức tín dụng. Số tiền gửi vượt quá hạn mức sẽ được giải quyết trong quá trình xử lý tài sản của ngân hàng

Hạn mức trả tiền bảo hiểm do Thủ tướng Chính phủ quy định theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2024, sau khi phương án phá sản được phê duyệt, Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ quyết định hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền, tối đa bằng số tiền gửi của cá nhân được bảo hiểm tại tổ chức tín dụng.

Luật sư Đinh Thị Chúc, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho biết, Điều 18, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định: “Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của Luật này.”. Vậy tất cả các loại tiền gửi cá nhân phù hợp với quy định nêu trên đều là tiền gửi được bảo hiểm.

Điều 19, Luật Bảo hiểm tiền gửi và Khoản 2 Điều 4 Nghị định 68/2013/NĐ-CP quy định tiền gửi không được bảo hiểm gồm:

- Tiền gửi không phải của cá nhân tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi

- Tiền gửi bằng ngoại tệ

- Tiền gửi tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức tài chính vi mô

- Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là người sở hữu trên 5% vốn điều lệ của chính tổ chức tín dụng đó.

- Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của chính tổ chức tín dụng đó; tiền gửi tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài của cá nhân là Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của chính chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó. Điều này nhằm nâng cao trách nhiệm của những người này trong quản lí và điều hành, đồng thời hạn chế rủi ro đạo đức, giúp nâng cao tính minh bạch, an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

- Tiền mua các giấy tờ có giá vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành.

Cùng với sự phát triển của công nghệ, nhu cầu và xu hướng gửi tiết kiệm trực tuyến (hay tiết kiệm online) của người dân đang ngày càng phổ biến. Đây là hình thức gửi tiết kiệm mà khách hàng gửi/tất toán tiền tiết kiệm thông qua internet mà không phải trực tiếp tới điểm giao dịch của tổ chức tín dụng.

Theo quy định, tiền gửi bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nhận tiền gửi của cá nhân đều được bảo hiểm, kể cả tiền gửi tiết kiệm trực tuyến, trừ trường hợp là tiền gửi của các cá nhân thuộc đối tượng không được bảo hiểm theo quy định của pháp luật .

Khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, người gửi tiền tiết kiệm trực tuyến chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với khoản tiền gửi để được nhận tiền bảo hiểm theo quy định..

Tuy nhiên, các khoản tiền gửi tại công ty đầu tư chứng khoán, tiền mua bảo hiểm nhân thọ không nằm trong phạm vi tiền gửi được bảo hiểm theo quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi. Do đó, các khoản tiền gửi này không được bảo hiểm.

Đối với trường hợp một người gửi nhiều khoản tiền tại cùng một tổ chức tín dụng, hoặc đứng tên chung sổ tiết kiệm với người khác, thì khi tổ chức đó mất khả năng chi trả, việc tính số tiền bảo hiểm được quy định cụ thể tại Điều 25 Luật Bảo hiểm tiền gửi.

Theo đó, khoản 1 Điều 25 nêu rõ: “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm”. Như vậy, dù người gửi có nhiều khoản tiền tại cùng một tổ chức tín dụng, hoặc tại các chi nhánh khác nhau của tổ chức này, thì tổng số tiền bảo hiểm được trả cũng không vượt quá hạn mức theo quy định.

Khoản 2 Điều 25 quy định về tiền gửi đứng tên chung như sau: Số tiền bảo hiểm được trả cho khoản tiền gửi chung không vượt quá hạn mức trả cho một người, và sẽ được phân chia theo thỏa thuận giữa các đồng chủ sở hữu. Nếu các đồng chủ sở hữu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp một người vừa có tiền gửi chung, vừa có tiền gửi riêng, thì tổng số tiền bảo hiểm được trả cho người đó (gồm cả phần trong khoản chung) cũng không vượt quá hạn mức.

Khoản 3 Điều 25 Luật Bảo hiểm tiền gửi, nếu người được bảo hiểm tiền gửi có khoản nợ tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thì số tiền gửi được bảo hiểm là số tiền còn lại sau khi trừ khoản nợ đó.

Các quy định nêu trên thể hiện rõ nguyên tắc minh bạch, hợp lý và bảo đảm sự công bằng trong việc chi trả bảo hiểm tiền gửi, phù hợp với tính chất bảo vệ người gửi tiền cá nhân.