Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm đã xuất hiện từ nhiều năm nay, nhưng mức độ nguy hiểm của nó thì chưa bao giờ là chuyện có thể xem nhẹ. Đặc biệt với những người có bệnh lý nền như tim mạch, đái tháo đường, người bị thừa cân, béo phì hoặc người bị suy giảm miễn dịch, virus gây sốt xuất huyết có thể khiến tình trạng sức khỏe của người bệnh chuyển biến xấu rất nhanh.

Cụ thể, theo BS CK 2 Đào Văn Cao - Trưởng Khoa Bệnh nhiệt đới, BV E, sốt xuất huyết có nhiều giai đoạn nhưng giai đoạn nguy hiểm nhất của bệnh thường diễn ra từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 sau khi bắt đầu sốt, và có thể kéo dài từ 24 đến 48 giờ. Trong giai đoạn này, bệnh nhân có thể nặng lên do xuất huyết dẫn đến giảm tiểu cầu, gây chảy máu.

“Nhẹ nhất là bệnh nhân xuất huyết dưới da, nặng hơn có thể bệnh nhân chảy máu ở niêm mạc, mũi hoặc hặng hơn nữa có thể xuất huyết tiêu hóa, 1 số bệnh nhân có thể xuát huyết não; thứ 2 là tình trạng bệnh nhân thoát huyết tương, sốc, nếu không điều trị kịp thời có thể diễn biến nặng hơn dẫn đến tử vong”, bác sĩ chuyên khoa 2 Đào Văn Cao nói.

Đặc biệt, người lớn tuổi, mắc các bệnh nền như tiểu đường, béo phì, tim mạch, hen suyễn... hệ miễn dịch bị suy giảm là đối tượng có nguy cơ cao bị biến chứng nặng của sốt xuất huyết.

“Người có bệnh nền, đặc biệt là người cao tuổi, thường có nguy cơ cao hơn bị sốc, xuất huyết nặng, suy đa tạng do sốt xuất huyết. Vì bản thân người có bệnh nền khi bị sốt xuất huyết là thêm 1 bệnh nữa, lúc đó nguy cơ để kiểm soát các bệnh đồng mắc đôi khi sẽ bị ảnh hưởng, làm biến động tất cả các chỉ số biến chứng khác do tình trạng sốt xuất huyết gây nên vì thế diến biến bệnh thường nặng hơn đòi hỏi chăm sóc y tế phải sát sao hơn...”, theo BS CK 2 Đào Văn Cao - Trưởng Khoa Bệnh nhiệt đới, BV E.

Do đó khi có các dấu hiệu cảnh báo như sốt cao liên tục, dùng hạ sốt không đỡ, xung huyết dưới da, đau đầu mệt mỏi cần đến bệnh viện để được điều trị kịp thời. Đặc biệt bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính như tiểu đường,tim mạch, thận, béo phì... nếu bị sốt xuất huyết nên nhập viện để được theo dõi điều trị, kiểm soát các biến chứng có thể xảy ra.