Những kết quả ban đầu từ Dự án 7 can thiệp dinh dưỡng cho trẻ em dân tộc thiểu số
Trong những năm gần đây, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho người dân. Tuy nhiên, một trong những mối quan tâm hàng đầu hiện nay là sự khác biệt lớn về tình hình dinh dưỡng giữa các vùng miền, nhất là giữa thành thị, đồng bằng với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Để cải thiện tình trạng dinh dưỡng tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi, “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021-2025” đã được Chính phủ phê duyệt và triển khai. Trong đó, Dự án 7 của Chương trình tập trung vào chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số và phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em.
“Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021-2025” đặt ra mục tiêu: Đến năm 2025 giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân xuống dưới 15%. Chương trình cũng đặt ra một số chỉ tiêu chủ yếu như: Tối thiểu 80% phụ nữ có thai được phổ biến kiến thức, khám thai định kỳ, hỗ trợ y tế, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; hỗ trợ tăng cường dinh dưỡng cho 100% trẻ em suy dinh dưỡng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Theo TS.BS Huỳnh Nam Phương, Trưởng phòng Quản lý Khoa học, Điều phối viên Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững và Dân tộc thiểu số, Viện Dinh dưỡng, Dự án 7 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2030 thực sự đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Trước hết, dự án đã đầu tư rất lớn cho hệ thống y tế cơ sở – từ cơ sở vật chất, trang thiết bị đến đào tạo nhân lực – giúp người dân được chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng ngay tại địa phương, giảm chi phí đi lại, giảm tải tuyến trên.
Bên cạnh đó, hàng triệu gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, hàng trăm nghìn lớp truyền thông, tập huấn dinh dưỡng đã được triển khai rộng khắp. Nhiều phụ nữ mang thai được bổ sung viên sắt – acid folic, trẻ suy dinh dưỡng được hỗ trợ đa vi chất, và các bà mẹ được hướng dẫn thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn bổ sung đúng cách. Nhờ vậy, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở vùng miền núi và trung du phía Bắc đã giảm rõ rệt trong những năm qua.
Một điểm đáng chú ý nữa là Dự án 7 không chỉ tập trung vào y tế, mà còn gắn dinh dưỡng với các chương trình giảm nghèo, phát triển sinh kế, cải thiện vệ sinh và giáo dục. Khi đời sống và thu nhập của người dân được nâng lên, tình trạng dinh dưỡng của trẻ cũng được cải thiện bền vững hơn.
Đặc biệt, Viện Dinh dưỡng cũng có cơ hội đồng hành chặt chẽ với các địa phương trong việc xây dựng tài liệu, tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật và triển khai các mô hình truyền thông phù hợp với đặc thù từng dân tộc. Tất cả những điều đó đã góp phần thiết thực vào việc nâng cao tầm vóc, thể lực và sức khỏe của trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
“Nếu như trước đây, suy dinh dưỡng thấp còi vẫn ở mức cao thì nay đã có bước cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi toàn quốc giảm từ khoảng 19,5% năm 2020 xuống còn 18,1% năm 2024; riêng khu vực miền núi và trung du phía Bắc giảm từ 26% xuống còn 23,8%. Một số tỉnh trước đây thuộc nhóm có tỷ lệ suy dinh dưỡng nặng như Lào Cai, Yên Bái cũng đã giảm trung bình 3–4% chỉ sau 4 năm. Những kết quả đó cho thấy sự đầu tư cho y tế cơ sở, cho truyền thông dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em đã thực sự phát huy hiệu quả. Người dân ngày càng được tiếp cận dịch vụ y tế, được hướng dẫn cách nuôi con đúng, bổ sung vi chất đầy đủ và biết tự cải thiện bữa ăn của gia đình từ nguồn thực phẩm sẵn có. Tôi cho rằng, đây là tín hiệu rất đáng mừng, thể hiện nỗ lực chung của các cấp, các ngành và đặc biệt là sự thay đổi trong nhận thức, hành vi của chính bà con vùng dân tộc thiểu số trong việc chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cho trẻ nhỏ”, TS.BS Huỳnh Nam Phương chia sẻ.
Chênh lệch về tình trạng dinh dưỡng giữa trẻ em miền núi và đồng bằng vẫn là thách thức lớn
Tuy nhiên, TS.BS. Huỳnh Nam Phương vẫn lo ngại về tình trạng suy dinh dưỡng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nguyên nhân là bởi sự cải thiện chưa thật sự đồng đều giữa các vùng miền, và khoảng cách dinh dưỡng giữa nhóm dân tộc thiểu số với người Kinh vẫn còn rất lớn.
Hiện nay, ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi vẫn còn trên 30%, thậm chí có nơi lên tới 35–37%. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng như sắt, kẽm, vitamin A vẫn phổ biến ở trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai.
Điều đáng lo hơn là nguyên nhân không chỉ đến từ bữa ăn thiếu đa dạng, mà còn từ những yếu tố sâu xa hơn như nghèo đói, tập quán ăn uống chưa hợp lý, rào cản ngôn ngữ, và khó khăn trong tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và nước sạch. Ở nhiều nơi, bà mẹ vẫn phải đi nương rẫy từ sớm, ít thời gian chăm sóc con; trẻ nhỏ không được ăn đủ bữa, đủ chất trong giai đoạn quan trọng 1.000 ngày đầu đời.
“Tôi cho rằng để giải quyết triệt để suy dinh dưỡng ở vùng dân tộc thiểu số, cần tiếp tục đầu tư mạnh hơn nữa cho y tế cơ sở, cho truyền thông thay đổi hành vi và hỗ trợ sinh kế để người dân có điều kiện cải thiện bữa ăn hàng ngày. Đây không chỉ là vấn đề y tế mà là bài toán phát triển con người bền vững”, TS.BS Huỳnh Nam Phương nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, theo TS.BS. Huỳnh Nam Phương, các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mặc dù đã được Nhà nước rất quan tâm và có nhiều chương trình can thiệp, nhưng quá trình triển khai thực tế vẫn gặp không ít khó khăn và bất cập.
Nhiều bản làng nằm xa trung tâm, đường đi lại khó khăn, nhất là mùa mưa lũ, khiến cán bộ y tế và dinh dưỡng khó tiếp cận, việc vận chuyển tài liệu, thực phẩm bổ sung, hay tổ chức các buổi truyền thông tập trung cũng không dễ dàng.
Ở nhiều nơi, cán bộ y tế cơ sở phải kiêm nhiệm nhiều việc, trong khi ngân sách dành riêng cho công tác dinh dưỡng còn hạn chế. Mạng lưới cộng tác viên thôn bản – những người trực tiếp làm truyền thông – thì thu nhập thấp, thiếu ổn định, nên khó duy trì hoạt động thường xuyên.
Rào cản văn hóa và ngôn ngữ vẫn là thách thức lớn. Phần lớn bà mẹ không thạo tiếng phổ thông, trong khi tài liệu truyền thông lại chưa được biên soạn bằng tiếng dân tộc. Nhiều tập quán nuôi con, kiêng khem, hay chế biến thức ăn chưa hợp lý vẫn còn phổ biến. Nếu không có cách tiếp cận phù hợp, thông điệp dinh dưỡng sẽ khó đi vào thực tế.
Dinh dưỡng là vấn đề cần sự tham gia của cả y tế, giáo dục, hội phụ nữ, đoàn thể…, nhưng sự phối hợp liên ngành đôi khi chưa đồng bộ, đôi khi còn chồng chéo, thiếu cơ chế thống nhất về nguồn lực và phân công trách nhiệm. Tất cả những khó khăn này khiến việc triển khai chính sách và hoạt động can thiệp dinh dưỡng ở vùng dân tộc thiểu số chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Các giải pháp trước mắt và lâu dài để giảm nhanh, bền vững tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số
Chỉ còn 2 tháng nữa là kết thúc năm 2025 và cũng là kết thúc giai đoạn 1 của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030.
TS.BS Huỳnh Nam Phương đề xuất, cần có các giải pháp đột phá, cấp bách để đẩy nhanh tốc độ giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân xuống dưới 15% như mục tiêu của Chương trình đã đề ra. Đó là:
- Phòng chống thiếu đói và phòng các bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt có thể tăng cao trong tình huống khẩn cấp. Cung cấp các sản phẩm can thiệp điều trị cho trẻ suy dinh dưỡng cấp tính, nhất là ở các khu vực vừa mới xảy ra thiên tai như vừa qua.
- Duy trì các hoạt động can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng thể thấp còi: đảm bảo độ bao phủ của các gói can thiệp dinh dưỡng thông qua duy trì chuỗi cung ứng các sản phẩm dinh dưỡng cho các nhóm đối tượng nguy cơ.
- Chuyển tiếp giai đoạn các chương trình mục tiêu, đặc biệt là ổn định các hoạt động tại tuyến y tế cơ sở.
Cũng theo TS.BS Huỳnh Nam Phương, để giai đoạn 2026–2030 đạt hiệu quả cao hơn và bền vững hơn, Dự án 7 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030 cần có một số điều chỉnh trọng tâm như sau:
- Tăng tính tập trung và ưu tiên cho dinh dưỡng trẻ em và bà mẹ mang thai. Dinh dưỡng cần được xem là chỉ tiêu trung tâm trong Dự án 7, có ngân sách riêng, có cơ chế giám sát kết quả cụ thể, chứ không chỉ lồng ghép trong y tế hay giảm nghèo. Việc phân bổ nguồn lực nên dựa trên mức độ suy dinh dưỡng thực tế của từng vùng, từng dân tộc để đảm bảo công bằng và hiệu quả.
-Đẩy mạnh các mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng. Thực tế cho thấy các mô hình như “câu lạc bộ dinh dưỡng bản”, “bữa ăn mẫu”, “vườn dinh dưỡng hộ gia đình” hay tư vấn dinh dưỡng qua nhóm Zalo, loa phát thanh bản… đã chứng minh hiệu quả rõ rệt. Giai đoạn tới, cần nhân rộng và hỗ trợ duy trì các mô hình này, đồng thời huy động già làng, trưởng bản, hội phụ nữ tham gia làm hạt nhân truyền thông.
-Tăng cường đầu tư cho y tế cơ sở và đội ngũ truyền thông tại chỗ. Cán bộ y tế thôn bản, cộng tác viên dinh dưỡng là những người tiếp xúc trực tiếp với bà con, nên cần được đào tạo định kỳ, có phụ cấp ổn định, và được cung cấp đủ tài liệu, công cụ truyền thông phù hợp với ngôn ngữ dân tộc.
-Đổi mới cách tiếp cận truyền thông dinh dưỡng. Ngoài hình thức trực tiếp, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số – như video ngắn, tin nhắn thoại, nhóm Zalo/Facebook – để lan tỏa thông điệp đến thế hệ trẻ, đồng thời tiếp tục biên soạn tài liệu song ngữ, gần gũi với phong tục địa phương.
Đặc biệt, theo TS.BS Huỳnh Nam Phương, Dự án 7 cần có cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ hơn, giữa y tế – giáo dục – nông nghiệp – hội phụ nữ – Ủy ban Dân tộc, bởi dinh dưỡng không thể tách rời điều kiện sống, nước sạch, sinh kế và giáo dục.
“Nếu làm được những điều đó, tôi tin rằng trong 5 năm tới, chúng ta hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách dinh dưỡng giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bằng, tạo nền tảng vững chắc để nâng cao tầm vóc, thể lực và trí tuệ của trẻ em Việt Nam”, TS.BS Huỳnh Nam Phương bày tỏ hi vọng
