Theo sử sách ghi lại, ngày 20/5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pác Bó về Tân Trào đã nghỉ qua đêm tại nhà ông Chánh Nhì, làng Chạp, xã Trung Sơn.
Và ngày 21/05/1945, Người đến Đình Hồng Thái, thôn Hồng Thái, xã Tân Trào. Đón Người tại Đình có các đồng chí Song Hào, Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đình phụ trách phân khu Nguyễn Huệ. Sau đó, Người vượt sông Phó Đáy, đến làng Kim Long ở và làm việc tại nhà ông Nguyễn Tiến Sự đến ngày 24/05/1945.

Từ cuối tháng 5 đến ngày 22/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc tại lán Nà Nưa, thôn Tân Lập, xã Tân Trào. Tại đây, Người chỉ thị khẩn trương mở trường Quân chính kháng Nhật tại Khuổi Kịch để đào tạo cán bộ. Đầu tháng 6, Người nghe báo cáo về những Nghị quyết của Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ và chỉ thị thành lập khu giải phóng, thống nhất lực lượng vũ trang, đặt tên là Quân giải phóng. Người khảo sát địa hình, chọn địa điểm làm sân bay để đón quân Đồng minh tại xóm Lũng Cò, xã Minh Thanh.
Cuối tháng 7, Người ốm nặng. Tỉnh lại sau cơn sốt, Người nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”.
Ngày 12/08/1945, Người chỉ thị Mệnh lệch Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Ngày 14/08/1945, theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập tại Tân Trào. Uỷ ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
- Năm 1945, chiến tranh Thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Tình hình thế giới có nhiều chuyển biến tích cực cho cách mạng Việt Nam. Trước thời cơ giành chính quyền đang đến gần, bên cạnh việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang; việc quan tâm, chuẩn bị căn cứ cách mạng làm chỗ dựa cho vũ trang khởi nghĩa cũng được chú trọng.
- Với vị trí “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, có dân tốt, cơ sở cách mạng tốt, địa hình tốt, thuận tiện làm một trung tâm liên lạc với miền xuôi, miền ngược và nước ngoài, Tân Trào đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chọn làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước. Khởi hành từ Pác Bó (Cao Bằng) vào ngày 4/5/1945, đến ngày 21/5/1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng đoàn công tác đã về đến Tân Trào (Tuyên Quang cũ).
- Tại Tân Trào, ngày 4/6/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định triệu tập Hội nghị Cán bộ Việt Minh. Hội nghị đã quyết định thành lập Khu giải phóng, gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên; thành lập Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.
- Ủy ban có nhiệm vụ lãnh đạo toàn Khu về các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu, đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử làm Ủy viên Thường trực, đồng thời chỉ huy về quân sự; thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng.
Ngày 16/08/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Đại hội quốc dân tại đình Tân Trào, Đại hội bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Quy định Quốc kỳ, Quốc ca.
Sáng ngày 17/8/1945, các thành viên trong Ủy ban Dân tộc Giải phóng vừa được Đại hội bầu đã ra mắt quốc dân và làm lễ tuyên thệ trước sân đình Tân Trào. Thay mặt Ủy ban, Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng đọc lời tuyên thệ trước hàng nghìn đồng bào trong khu giải phóng đến dự buổi lễ trọng thể này.

Bác Hồ đã thay mặt Ủy ban Dân tộc Giải phóng, đứng trước cửa đình Tân Trào đọc lời tuyên thệ quyết tâm giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Người nói rằng: Chúng tôi là những người được Quốc dân đại hội bầu vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, dù hy sinh đến giọt máu cuối cùng quyết không lùi bước - Xin thề! Xin thề!
Trước ngày 20/8/1945, Người họp với các đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Thái, Hoàng Hữu Kháng, Trần Thị Minh Châu. Người nói: “Bây giờ ta có chính quyền, chắc các cô, các chú cũng muốn về Hà Nội. Nhưng chưa được đâu! Lê-nin đã nói: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Bởi vậy, một số các cô, các chú còn ở lại địa phương đây, giúp đồng bào tổ chức cuộc sống sao cho tươi đẹp hơn, ấm no, văn minh hơn… Biết đâu, chúng ta còn trở lên đây nhờ cậy đồng bào lần nữa…”
Ngày 22/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời lán Nà Nưa (Tân Trào) về Hà Nội, chuẩn bị cho ngày tuyên bố độc lập. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, đúng 14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng công bố Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới, trước sự chứng kiến của hàng chục vạn đồng bào Hà Nội và các phóng viên, nhà báo trong nước và quốc tế./.